Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Của Tình Yêu (4)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 585 | Cật nhập lần cuối: 5/14/2021 9:12:10 PM | RSS

CHƯƠNG IV - TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN

Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Của Tình Yêu (4)89. Tất cả những gì đã nói cho tới đây vẫn chưa đủ để diễn tả Tin mừng về hôn nhân và gia đình, nếu chúng ta không dừng lại để đặc biệt nói về tình yêu. Bởi vì chúng ta không thể khuyến khích một cuộc hành trình của lòng trung thành và tự hiến cho nhau nếu không khích lệ sự lớn lên, sự củng cố và đào sâu tình yêu hôn nhân và gia đình. Thật vậy, ơn sủng của Bí tích Hôn Phối được nhắm trước hết là “để làm cho tình yêu của đôi bạn nên trọn hảo”.(104) Trong trường hợp này chúng ta cũng có thể nói rằng “giả như tôi có tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài bố thí hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,2-3). Tuy nhiên, nếu từ “tình yêu” rất hay được dùng thì nó cũng rất hay bị lạm dụng. (105)

Tình yêu hằng ngày của chúng ta

90. Trong cái được gọi là bài ca đức mến của Thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thực:

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
Không nóng giận, không nuôi hận thù,
Không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.

(1 Cr 13,4-7).

Tình yêu được sống và được vun trồng trong cuộc sống mà hằng ngày đôi vợ chồng và con cái họ cùng chia sẻ. Do đó, dừng lại để xác định ý nghĩa của các diễn ngữ của bản văn này, để rồi thử áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi gia đình, là điều đáng quí.

Tình yêu thương thì nhẫn nhục

91. Diễn ngữ đầu tiên được dùng là macrothymei. Từ ngữ này không chỉ được chuyển dịch là “chịu đựng tất cả”, vì chúng ta gặp thấy ý tưởng ấy ở cuối câu 7. Ý nghĩa của từ này được làm sáng tỏ nhờ bản dịch tiếng Hi lạp của Cựu Ước, ở đó người ta khẳng định rằng Thiên Chúa “chậm giận” (Xh 34, 6; Ds 14, 18). Nó cho thấy khi một người không hành động theo những xung năng bộc phát và tránh gây tổn thương. Đó là một đặc tính của vị Thiên Chúa của Giao ước, Đấng kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài cả trong đời sống gia đình. Các bản văn của Thánh Phaolô có dùng từ ngữ này phải được đọc trên nền hậu cảnh của sách Khôn Ngoan (cf. 11, 23; 12,2.15-18): ở đó người ta ca tụng sự kiềm chế của Thiên Chúa nhằm chừa chỗ cho khả năng thống hối, đồng thời vẫn khẳng định quyền năng của Ngài được bộc lộ khi hành động với lòng thương xót. Sự nhẫn nhục của Thiên Chúa là việc thực thi lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân, và là sự biểu lộ quyền năng đích thực của Ngài.

92. Nhẫn nhục không có nghĩa là cho phép mình thường xuyên bị xử tệ, hoặc dung túng cho những bạo hành trên thân xác, hay cho phép người khác đối xử với mình như một đồ vật. Vấn đề xảy ra là khi chúng ta đòi các mối tương quan phải êm ả hay người ta phải hoàn hảo, hoặc khi chúng ta đặt mình ở trung tâm và mong đợi duy nhất một điều là mọi sự đi theo ý muốn của mình. Rồi thì mọi sự làm chúng ta mất kiên nhẫn, mọi sự làm chúng ta phản ứng cách hung hăng. Nếu chúng ta không vun xới thái độ nhẫn nhục, chúng ta sẽ luôn luôn phải hối tiếc vì cư xử giận dữ, và rốt cuộc chúng ta sẽ không thể sống chung với nhau, chống lại xã hội, chúng ta không có khả năng làm chủ được các xung năng của mình, và gia đình sẽ biến thành bãi chiến trường. Vì thế Lời Chúa khuyên chúng ta: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4, 31). Đức nhẫn nhục được tăng thêm khi tôi nhìn nhận người khác cũng có quyền sống trên trái đất này cùng với tôi, như sự thực là thế. Việc họ có ngáng trở tôi, làm xáo trộn các kế hoạch của tôi, hay họ làm tôi bực mình do lối sống của họ hay bởi cách suy nghĩ của họ, hoặc trong mọi sự không theo cách mà tôi vẫn mong đợi, là điều không quan trọng. Tình yêu luôn luôn bao hàm một ý thức thương cảm sâu xa dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới này, ngay cả khi người ấy hành động khác với kì vọng của tôi.

Nhân hậu

93. Từ ngữ kế tiếp là chrestéuetai chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong toàn bộ Thánh Kinh, được rút ra từ chữ chrestós (có nghĩa: người tốt, người cho thấy lòng tốt qua các việc làm của mình). Tuy nhiên, xét vị trí của từ ở đây đứng song song gắn chặt với động từ đi trước, nó được dùng như một bổ ngữ. Như thế thánh Phaolô muốn nói rõ rằng “nhẫn nhục” được nêu ra đầu tiên không phải là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là một thái độ gắn liền với hoạt động, với một tương tác năng động và sáng tạo với người khác. Nó cho thấy rằng yêu là làm điều tốt cho người khác và thăng tiến người khác. Vì vậy nó được dịch là “nhân hậu”.

94. Xem toàn bản văn, ta thấy thánh Phaolô muốn nhấn mạnh tình yêu không chỉ là một cảm xúc thuần túy, nhưng đúng hơn, nó phải được hiểu theo động từ “yêu” của tiếng Hípri; nghĩa là “làm điều tốt”. Như Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm nhiều hơn bằng lời nói”. (106) Như thế nó cho thấy tất cả sự phong nhiêu của nó và giúp ta cảm nghiệm niềm hạnh phúc của việc trao ban, sự cao quí và vĩ đại của việc dâng hiến chính mình một cách hào phóng, vô lượng, không đòi được đền đáp, nhưng chỉ vui qua trao ban và phục vụ.

Chữa lành ghen tương

95. Một thái độ, bởi đó, cũng bị từ chối vì đối nghịch với tình yêu, được diễn tả bằng chữ zelos (ghen tương hay đố kị). Điều này có nghĩa là trong tình yêu không có chỗ cho sự khó chịu trước điều may mắn tốt lành của người khác (cf. Cv 7, 9; 17, 5). Ghen tị là buồn bực trước một điều thiện hảo của người khác, nó chứng tỏ ta không quan tâm đến hạnh phúc của người khác mà chỉ tập chú vào lợi ích của ta. Trong khi yêu thương đưa chúng ta ra khỏi chính mình, thì ghen tị lại qui chúng ta trở về với cái tôi của mình. Tình yêu đích thực thì quí trọng sự thành công của người khác, không xem điều ấy như một sự đe dọa đối với mình, giải thoát ta khỏi vị đắng cay của ghen tị. Nó nhìn nhận rằng mỗi người có những ơn ban khác nhau và có những lối đường khác nhau trong cuộc sống. Vì thế nó cố gắng khám phá con đường hạnh phúc của mình, trong khi để cho người khác tìm thấy con đường của họ.

96. Tóm lại, yêu thương có nghĩa là chu toàn hai giới răn cuối cùng của Lề Luật Thiên Chúa: “Ngươi không được ham muốn nhà người ta; ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20, 17). Tình yêu khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mỗi người và nhìn nhận quyền được hạnh phúc của người khác. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với ánh nhìn của Thiên Chúa là Cha, Đấng trao ban cho chúng ta mọi sự “để chúng ta được hưởng dùng” (1 Tm 6, 17), và như vậy, tôi chấp nhận trong lòng rằng người ấy có thể vui hưởng một khoảnh khắc hạnh phúc. Dù sao đi nữa, chính tình yêu cội rễ này cũng sẽ hướng tôi đến chỗ chối bỏ sự bất công vì lẽ một số người chiếm hữu quá nhiều và những người khác thì không có gì cả, tình yêu ấy thúc giục tôi làm cách nào để giúp những người bị xã hội loại bỏ cũng hưởng được chút niềm vui. Nhưng đó không phải là ghen tị, nhưng là khát vọng về sự bình đẳng.

Không vênh vang, không tự đắc

97. Tiếp đến là diễn ngữ perpereuetai hàm nghĩa sự tự đắc, lo lắng thể hiện sự trổi vượt của mình nhằm tạo ấn tượng trên những người khác qua thái độ mô phạm và hung hăng. Người yêu thương thì không những biết tránh không nói quá nhiều về chính mình, mà hơn nữa, vì tập chú vào người khác, người ấy biết đặt mình vào vị trí của người khác, không đòi làm trung tâm của mọi sự chú ý. Từ ngữ physioutai tiếp theo sau cũng có nghĩa tương tự, cho thấy rằng yêu thương thì không cao ngạo. Theo sát nghĩa từ ấy muốn diễn tả chúng ta không “lên mặt” trước người khác, cũng cho thấy một cái gì đó tinh tế hơn. Đó không chỉ là một nỗi ám ảnh muốn khoe khoang những phẩm chất của mình mà còn là mất ý thức về thực tại. Ta tự xem mình cao trọng hơn sự thực mình là, vì tưởng rằng mình “đạo đức” hơn hay “khôn ngoan” hơn. Thánh Phaolô còn dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói “sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo, còn tình yêu thì xây dựng” (1 Cr 8, 1). Cũng đáng nói là, một số người nghĩ rằng họ cao trọng vì họ hiểu biết hơn những người khác, và ra sức đòi hỏi và khống chế những người khác, trong khi điều thực sự làm ta cao trọng chính là một tình yêu biết cảm thông, quan tâm, và nâng đỡ những người yếu đuối. Trong một đoạn khác, thánh Phaolô dùng từ này để phê bình những người “tự cao tự đại” (cf. 1 Cr 4, 18), nhưng thực sự họ chỉ nói những lời trống rỗng hơn là những lời thực sự có “quyền năng” của Thần Khí (cf. 1 Cr 4, 19).

98. Thật quan trọng việc người Kitô hữu sống thái độ này trong cách họ cư xử với những người thân trong gia đình ít hiểu biết hơn mình về đức tin, họ là những người yếu đuối hoặc thiếu một xác tín chắc chắn. Có khi xảy ra điều ngược lại: những tín hữu được cho là trưởng thành trong gia đình thì lại trở thành kẻ cao ngạo không ai chịu nổi. Thái độ khiêm hạ ở đây có vẻ như một điều gì đó thuộc về tình yêu, bởi vì, để có thể thông cảm, tha thứ và thành tâm phục vụ người khác, thì cần thiết phải chữa trị thói kiêu ngạo và vun đắp lòng khiêm nhu. Đức Giêsu lưu ý các môn đệ rằng trong thế giới của quyền lực mỗi người đều tìm cách để thống trị kẻ khác, và bởi thế Người nói “giữa anh em thì không như thế” (Mt 20, 26). Lối nghĩ về tình yêu Kitô giáo không phải là lối nghĩ của người đứng bên trên người khác và cần để họ biết đến quyền lực của mình, nhưng là lối nghĩ “ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27). Trong đời sống gia đình không thể để bao trùm lối nghĩ thống trị lẫn nhau và sự cạnh tranh để xem ai là người thông minh hơn hay quyền lực hơn, vì như thế sẽ làm hủy diệt tình yêu. Lời khuyên cho gia đình sau đây cũng thật đáng giá: “Tất cả anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5).

Không khiếm nhã

99. Yêu thương cũng có nghĩa là làm cho mình đáng yêu, và đây là ý nghĩa ẩn chứa trong diễn ngữ aschemonei. Từ ngữ này muốn nói rằng tình yêu thì không hành động thô lỗ, khiếm nhã, không cư xử gay gắt. Các cách thức, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và không chua chát hay cứng cỏi. Yêu thương thì không muốn làm cho người khác đau khổ. Hòa nhã “là một trường học dạy sự mẫn cảm và tinh thần vô vị lợi”, nó đòi người ta “phải vun xới tâm tư và tình cảm của mình, học biết lắng nghe, ăn nói, và có những lúc cũng biết thinh lặng”. (107) Hòa nhã không phải là một lối sống mà một Kitô hữu có thể chọn lựa hay từ chối: nó là thành phần trong những đòi hỏi thiết yếu của tình yêu, bởi thế “mỗi người đều phải để tâm sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.(108) Mỗi ngày, “việc bước vào đời sống của một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã là phần đời của mình, thì vẫn đòi hỏi một thái độ tế nhị không xâm phạm, điều này có sức làm mới lại niềm tin tưởng và sự kính trọng. Tình yêu càng thân mật và sâu xa, càng đòi hỏi tôn trọng tự do và khả năng chờ đợi người ấy mở cửa lòng ra”.(109)

100. Để sẵn sàng đón nhận một cuộc gặp gỡ đích thực với người khác, đòi hỏi phải có một cái nhìn nhân hậu đối với người ấy. Điều này không thể có được khi ta luôn có thái độ bi quan nhìn người khác như muốn vạch ra những khuyết điểm và sai lầm của họ, có lẽ là để khỏa lấp những mặc cảm của mình. Một cái nhìn nhân hậu cho phép chúng ta không dừng lại quá nhiều trên những giới hạn của người khác, và như thế chúng ta có thể khoan dung với họ và hiệp nhất với nhau trong một kế hoạch chung, bất chấp những khác biệt. Tình yêu thương nhân hậu sẽ tạo ra các mối dây liên kết, vun xới các tương quan, kiến tạo các mạng lưới hội nhập mới và xây dựng một cơ cấu xã hội vững chắc. Bằng cách này, tình yêu sẽ tự bảo vệ mình, vì nếu không có một cảm thức thuộc về, thì người ta không thể bền bỉ dấn thân cho người khác; rốt cuộc mỗi người sẽ chỉ tìm kiếm những gì tiện ích cho mình và không thể có đời sống chung được. Một người dị ứng với xã hội tin rằng những người khác tồn tại chỉ để thỏa mãn các nhu cầu của mình, và cho rằng khi làm như thế là họ chỉ hoàn thành nghĩa vụ của họ. Vì thế không có chỗ cho lòng tử tế của tình yêu cũng như không có chỗ cho ngôn từ để diễn tả nó. Ai yêu thương thì có khả năng nói những lời động viên có sức vỗ về, trợ lực, an ủi, khích lệ. Chúng ta hãy xem, chẳng hạn, một vài lời mà Đức Giêsu đã nói với người ta: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9, 2); “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15, 28); “Hãy trỗi dậy đi!” (Mc 5, 41); “Chị hãy đi bình an” (Lc 7, 50); “Anh em đừng sợ” (Mt 14, 27). Đó không phải là những lời hạ giá người ta, gây buồn phiền, chọc tức hay khinh dễ. Trong gia đình, chúng ta cần học cách ăn nói hòa nhã với nhau như thế của Đức Giêsu.

Quảng đại (Không tìm tư lợi)

101. Chúng ta đã nói rất nhiều lần rằng để yêu thương người khác, trước hết chúng ta phải yêu thương chính mình. Thế nhưng, bài ca đức mến này quả quyết rằng yêu thương thì “không tìm tư lợi”, hoặc “không tìm kiếm điều thuộc về mình”. Diễn ngữ này cũng được dùng trong một bản văn khác: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Trước một khẳng định rõ ràng như thế của Thánh Kinh cần tránh gán ưu tiên cho tình yêu đối với chính bản thân như thể nó cao quí hơn sự quảng đại hiến thân cho người khác. Ưu tiên yêu thương mình chỉ có thể được hiểu như một điều kiện tâm lí, xét vì ai không có khả năng yêu thương chính mình thì sẽ khó yêu thương người khác: “Xấu với bản thân thì tốt với ai được? […] Không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình” (Hc 14,5-6).

102. Nhưng chính Thánh Tôma Aquinô đã giải thích rằng “đức ái hệ tại ở ước muốn yêu thương hơn là ước muốn được yêu thương”; (110) thật vậy, “những người mẹ, là những người yêu thương nhiều nhất, tìm cách để yêu hơn là để được yêu”. (111) Bởi thế, tình yêu có thể vượt lên trên sự công bằng và tuôn tràn một cách vô cầu mà “không hề hi vọng được đền đáp” (Lc 6, 35), và đạt tới tình yêu vĩ đại nhất, đó là “việc hiến mạng sống mình” cho người khác (cf. Ga 15, 13). Liệu một lòng quảng đại như thế, lòng quảng đại làm ta có thể dâng hiến một cách vô cầu, và dâng hiến cho đến cùng, còn có thể tồn tại không? Chắc chắn là có, bởi vì đó là điều Tin mừng đòi hỏi: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).

Không nóng giận không nuôi hận thù

103. Nếu diễn ngữ đầu tiên trong bài ca đã mời gọi chúng ta biết nhẫn nhục để tránh không phản ứng gay gắt ngay lập tức trước những yếu đuối và sai lỗi của người khác, thì bây giờ xuất hiện một từ ngữ khác – paroxynetai – diễn tả sự bất bình trong lòng như một phản ứng được khơi lên bởi một cái gì đó từ bên ngoài. Nó diễn tả một phản ứng bạo lực ở bên trong, một sự tức giận không bộc lộ ra ngoài đặt ta vào thế phòng vệ trước người khác, như thể họ là kẻ thù gây phiền hà cần phải tránh xa. Việc nuôi dưỡng thái độ gây hấn trong lòng như thế không có ích gì. Nó chỉ làm ta đau bệnh và rốt cuộc làm người ta xa lánh. Nóng giận chỉ lành mạnh khi nó làm cho ta phản ứng trước một bất công nghiêm trọng, nhưng sẽ tác hại khi có chiều hướng tức giận thấm ngập trong mọi thái độ của ta đối với người khác.

104. Tin mừng mời gọi chúng ta tốt hơn hết hãy nhìn cái xà trong mắt mình (cf. Mt 7, 5), và với tư cách là Kitô hữu chúng ta không thể không biết đến Lời Chúa hằng mời gọi đừng nuôi cơn giận: “Đừng để cho sự ác thắng được mình” (Rm 12, 21). “Đừng nản chí vì làm điều thiện” (Gl 6, 9). Việc chúng ta đột nhiên cảm thấy một nỗi oán hận hung hăng chực trào lên, đó là một chuyện; còn việc chúng ta có ưng thuận và dung dưỡng nó thường xuyên trong tâm hồn mình hay không, thì đó là một chuyện khác: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội; chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4, 26). Vì thế, đừng bao giờ để một ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình. “Nhưng tôi sẽ làm hòa bằng cách nào? Tôi sẽ quì xuống chăng? Không! Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái gì đó rất đơn sơ thôi, và sự hòa điệu trong gia đình sẽ được vãn hồi. Chỉ cần một chút âu yếm, chẳng cần lời lẽ gì. Nhưng đừng bao giờ để một ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình”. (112) Phản ứng trong lòng của chúng ta trước phiền nhiễu mà người khác gây ra trước hết phải là một lời chúc phúc tự trong lòng, muốn điều tốt cho người khác, xin Thiên Chúa giải phóng và chữa trị người đó. “Nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr 3, 9). Nếu chúng ta phải chiến đấu chống lại sự dữ, thì hãy chiến đấu; nhưng chúng ta phải luôn luôn nói “không” với bạo lực trong gia đình.

Dung thứ

105. Nếu chúng ta cho phép một tâm tình xấu ngấm sâu vào trong lòng mình, tức là chúng ta đã dành chỗ cho sự oán hận làm tổ trong lòng chúng ta. Cụm từ logizetai to kakon có nghĩa là “chấp nhất sự dữ”, “ghim nó trong lòng”, nói cách khác là “oán hận”. Ngược lại là sự tha thứ, một sự tha thứ được đặt nền tảng trên một thái độ tích cực muốn tìm cách thông cảm sự yếu đuối của người khác và bỏ qua cho họ, như Đức Giêsu đã nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 24). Thế nhưng, chúng ta thường có khuynh hướng moi móc thêm những sai lỗi, tưởng tượng thêm những điều xấu xa, giả định đủ loại ác ý, và vì thế sự oán hận gia tăng và bén rễ sâu hơn. Do đó mà mọi lỗi lầm hay sa ngã từ người vợ (hay chồng) đều có thể làm tổn hại mối ràng buộc yêu thương và sự ổn định của gia đình. Vấn đề là ở chỗ đôi khi chúng ta xem mọi sự đều nghiêm trọng như nhau, như thế có nguy cơ chúng ta trở nên khắc nghiệt với bất kì sai lầm nào của người khác. Việc đòi hỏi chính đáng các quyền của mình sẽ biến thành một cơn khát dai dẳng và không dứt muốn trả thù thay vì là một sự bảo vệ chính đáng phẩm giá của mình.

106. Khi chúng ta bị xúc phạm hay bị lừa dối, thì sự tha thứ là điều có thể và đáng mong ước, nhưng không ai có thể nói đó là điều dễ dàng. Sự thật là “mối hiệp thông gia đình chỉ có thể được gìn giữ và hoàn thiện với một tinh thần hi sinh rất lớn. Thật vậy, nó đòi hỏi sự cởi mở và sẵn lòng quảng đại của mọi người và từng người, để cảm thông, khoan dung, tha thứ và hòa giải. Không có gia đình nào mà không kinh nghiệm sự ích kỉ, bất hòa, căng thẳng và xung đột tấn công thô bạo và đôi khi đánh chí tử vào chính mối hiệp thông của mình: từ đó xảy ra biết bao chia rẽ và đủ thứ chia rẽ trong đời sống gia đình”. (113)

107. Ngày nay chúng ta biết rằng để có thể tha thứ chúng ta cần trải qua kinh nghiệm giải thoát của sự biết cảm thông và tha thứ cho chính mình. Rất nhiều khi các lỗi lầm của chúng ta, hoặc cái nhìn phê phán của những người thân yêu, có thể làm cho chúng ta đánh mất sự quí trọng đối với chính bản thân mình. Rốt cuộc chúng ta nhìn mình bằng con mắt của những người khác, tránh né tình cảm và luôn sợ hãi các mối tương quan liên vị. Bởi thế, để trấn an mình cách sai trái ta có thể đi đổ lỗi lên người khác. Chúng ta cần đưa lịch sử đời mình vào cầu nguyện, cần biết chấp nhận chính mình, biết cách sống chung với những hạn chế của mình, và ngay cả biết tha thứ cho chính mình, để có thể có cùng thái độ như vậy đối với những người khác.

108. Nhưng điều này giả thiết chính chúng ta đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được công chính hóa cách vô điều kiện bởi ân sủng của Ngài chứ không bởi công trạng của chúng ta. Chúng ta đã đạt đến kinh nghiệm của một tình yêu đi bước trước mọi việc làm của mình, một tình yêu luôn luôn mang đến cho ta những cơ hội mới, một tình yêu thúc đẩy và khích lệ. Nếu chúng ta chấp nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa thì vô điều kiện, rằng tình yêu của Chúa Cha không thể được mua hay bán, bấy giờ chúng ta mới có thể yêu thương vượt trên tất cả, tha thứ cho người khác ngay cả khi họ cư xử bất công với chúng ta. Nếu không, cuộc sống gia đình chúng ta sẽ không còn là một nơi của cảm thông, đồng hành và khích lệ thay vào đó sẽ là một nơi thường xuyên căng thẳng và công phạt lẫn nhau.

Vui với người khác

109. Diễn ngữ chairei epi te adikia cho thấy một cái gì đó tiêu cực ẩn sâu trong lòng người ta. Đó là thái độ độc ác của người vui mừng khi thấy người khác phải chịu sự bất công. Diễn ngữ này được bổ nghĩa bởi cụm từ theo sau: synchairei te aletheia diễn tả điều tích cực, có nghĩa là “vui khi thấy điều chân thật”. Nói cách khác, chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác, khi phẩm giá của họ được nhìn nhận, khi các khả năng và các việc tốt của họ được trân trọng. Điều này là không thể đối với những ai phải luôn luôn so bì và ganh đua, ngay cả với vợ hoặc chồng mình, đến độ ngầm vui mừng trong lòng trước những thất bại của người ấy.

110. Khi một người yêu thương người ấy có thể làm điều tốt cho người khác, hoặc khi người ấy nhìn thấy mọi sự đều diễn ra tốt đẹp cho người khác, thì chính họ cũng cảm thấy vui, và bằng cách ấy họ tôn vinh Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9, 7). Chúa chúng ta đặc biệt trân trọng những ai tìm thấy niềm vui trong hạnh phúc của người khác. Nếu chúng ta không nuôi dưỡng khả năng của chúng ta biết vui hưởng trước những điều tốt lành của người khác mà chỉ chủ yếu tập trung vào các nhu cầu của mình, thì chúng ta đang tự đày đọa mình sống thiếu niềm vui, như Đức Giêsu nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Gia đình phải luôn là nơi mà bất cứ ai ở trong đó làm được điều gì tốt đẹp trong cuộc sống, đều biết rằng ở đó mọi người cũng sẽ mừng về điều ấy với mình.

Tha thứ tất cả

111. Bài ca đức mến hoàn tất danh mục với bốn diễn ngữ nói lên tính toàn thể: “tất cả”. [Tình yêu] tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Bằng cách đó người ta khẳng định mạnh mẽ đến sự năng động đi ngược dòng văn hóa của tình yêu, vốn có sức đương đầu với bất cứ gì có thể đe dọa nó.

112. Trước hết, người ta khẳng định rằng [tình yêu thì] “tha thứ tất cả” (panta stegei). Điều này thì khác với việc “không chấp nhất sự dữ”, bởi vì từ này có liên quan tới việc sử dụng cái lưỡi; nó có thể có nghĩa là “giữ thinh lặng” về một điều tiêu cực có thể có nơi người khác. Nó hàm nghĩa hạn chế sự xét đoán, kiềm giữ khuynh hướng muốn làm bật ra một lời lên án nghiệt ngã và bất nhẫn: “Đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán” (Lc 6, 37). Lời Thiên Chúa bảo chúng ta cho dẫu đi ngược lại với thói quen sử dụng cái lưỡi của mình: “Đừng nói xấu nhau, thưa anh chị em” (Gc 4, 11). Không ngừng bôi nhọ hình ảnh người khác là một cách tôn tạo hình ảnh của mình, nhằm trút sự oán hận và ghen tị mà không lưu tâm đến tai hại mình có thể gây ra. Rất nhiều khi người ta quên rằng phỉ báng người khác có thể là một tội lớn; một xúc phạm nghiêm trọng đến Thiên Chúa, khi nó xâm phạm nặng nề đến thanh danh của người khác và gây ra những tổn thất rất khó sửa chữa. Vì thế Lời Chúa tuyên bố cứng rắn về cái lưỡi khi nói rằng nó “là thế giới của sự ác”, nó “làm cho toàn thân bị ô nhiễm đốt cháy toàn thể cuộc đời” (Gc 3, 6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người” (Gc 3, 8). Nếu như cái lưỡi có thể được dùng để “nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gc 3, 9), thì tình yêu lại trân trọng hình ảnh của người khác một cách tinh tế đến nỗi cả bảo vệ thanh danh của kẻ thù. Trong khi bảo vệ luật Chúa, chúng ta không bao giờ được quên đòi hỏi này của tình yêu.

113. Những đôi vợ chồng yêu thương nhau và thuộc về nhau nói tốt về nhau, họ tìm cách nêu lên mặt tốt của người bạn đời chứ không phải điểm yếu hay những sai lầm của người ấy. Bất luận trường hợp nào, họ đều giữ im lặng để không làm hại thanh danh người kia. Tuy nhiên, đây không chỉ là một hành động bên ngoài nhưng xuất phát từ một thái độ nội tâm. Đây cũng không phải là việc của kẻ ngây thơ bảo rằng mình không thấy những khó khăn và những điểm yếu của người kia, mà đúng hơn là mình nhìn những điểm yếu và sai lầm ấy trong một bối cảnh rộng lớn hơn; họ nhắc nhớ rằng những khuyết điểm ấy chỉ là một phần chứ không phải là toàn bộ bản thân của người kia. Một sự bất bình trong quan hệ không là tất cả mối quan hệ. Vì thế chúng ta có thể chấp nhận một cách đơn sơ rằng tất cả chúng ta đều là một hỗn hợp phức tạp của ánh sáng và bóng tối. Người kia không chỉ là người gây cho tôi nỗi bực mình mà còn có nhiều điều khác phong phú hơn thế nữa. Cũng vì thế, tôi không có ý đòi hỏi tình yêu của người ấy phải hoàn hảo thì mới được trân trọng. Người kia yêu tôi bằng chính con người thực tế của người ấy và trong khả năng của người ấy, với những giới hạn của người ấy, nhưng nói rằng tình yêu của người ấy không hoàn hảo không có nghĩa rằng nó giả trá hay không chân thực. Nó vẫn chân thực cho dù giới hạn và phàm trần. Do đó, nếu kì vọng quá nhiều, thì một cách nào đó, người ấy sẽ cho tôi hiểu, người ấy không thể mà cũng sẽ không chấp nhận việc sắm vai Thiên Chúa để mà đáp ứng mọi nhu cầu của tôi. Tình yêu sống chung với sự bất toàn, “dung thứ tất cả” và biết im lặng trước những giới hạn của người mình yêu.

Tin tưởng

114. Panta pisteuei. [Tình yêu] “tin tưởng tất cả”. Do mạch văn ở đây “tin” không được hiểu theo nghĩa thần học, nhưng theo nghĩa “tin tưởng” mà chúng ta vẫn dùng. Vấn đề không chỉ là không nghi ngờ người kia đang nói dối hay lừa lọc ta. Sự tin tưởng căn bản ấy nhận ra ánh sáng được thắp lên bởi Thiên Chúa khuất ẩn đàng sau bóng tối, hoặc như cục than hồng vẫn còn cháy đỏ bên dưới đống tro.

115. Chính sự tin tưởng này làm cho một mối tương quan được tự do. Ta không cần phải kiểm soát người kia, bám theo từng bước chân của người ấy để không cho người ấy thoát khỏi tay ta. Tình yêu thì tin tưởng, để cho nó tự do, từ chối kiểm soát mọi sự, chiếm hữu, thống trị. Sự tự do này, vốn có thể tạo ra những không gian độc lập, mở ra với thế giới và đón nhận những kinh nghiệm mới, giúp các tương quan thêm phong phú và mở rộng. Bằng cách đó, vợ chồng sẽ san sẻ cho nhau niềm vui về tất cả những gì họ lãnh nhận và học được từ bên ngoài phạm vi gia đình. Đồng thời, tự do giúp người ta có được sự chân thành và minh bạch, vì khi biết rằng mình được những người khác tin tưởng và chân tình quí trọng lòng tốt thì sẽ cởi mở mà không giấu diếm điều gì. Một người mà biết rằng những người khác luôn nghi ngờ mình, hoặc xét đoán mà không chút cảm thương và không yêu thương mình vô điều kiện, thì người đó sẽ có khuynh hướng giữ kín các bí mật của mình, che giấu các tội lỗi và yếu đuối của mình, và sống giả dối. Trái lại, một gia đình mà trong đó sự tin tưởng vững vàng đầy yêu thương ngự trị, và là nơi cho người ta luôn quay về trong tin tưởng dẫu cho bất cứ điều gì xảy ra, gia đình ấy sẽ giúp các thành viên sống căn tính đích thật của mình, và đương nhiên loại trừ sự lừa gạt, giả tạo, và dối trá.

Hi vọng

116. Panta elpizei: tình yêu không thất vọng về tương lai. Tiếp nối từ ngữ trước, diễn ngữ này chỉ niềm hi vọng của người biết rằng người khác có thể thay đổi. Luôn hi vọng người khác một ngày nào đó có thể trưởng thành bất ngờ tỏa ra vẻ đẹp cũng như những tiềm năng chưa từng được biết. Điều này không có nghĩa là mọi sự sẽ thay đổi trong cuộc đời này. Từ đó biết chấp nhận rằng, dù mọi sự có thể không xảy ra như ta mong ước, Thiên Chúa vẫn hoàn toàn có thể uốn thẳng những đường cong của người đó và rút ra điều tốt lành nào đó từ sự dữ mà chúng ta phải chịu trong thế giới này.

117. Ở đây niềm hi vọng đạt mức trọn vẹn nhất của nó, vì nó hiểu chắc chắn về sự sống bên kia cái chết. Con người ấy, với tất cả những yếu đuối của mình, được mời gọi đạt đến sự sống viên mãn trên thiên quốc. Nơi đó, con người được biến đổi hoàn toàn bởi sự phục sinh của Đức Kitô, mọi yếu đuối, bóng tối và bệnh tật của con người sẽ không còn tồn tại. Nơi đó, hiện hữu đích thực của con người sẽ chiếu sáng với tất cả quyền lực của sự tốt lành và vẻ đẹp của nó. Điều này cũng cho phép chúng ta, giữa những phiền muộn chồng chất của cuộc đời này, biết chiêm ngắm con người ấy bằng một cái nhìn siêu nhiên, trong ánh sáng của đức cậy, và trông đợi sự viên mãn mà một ngày nào đó người ấy sẽ nhận được trong Nước Trời, mặc dù hiện nay chưa nhìn thấy.

Chịu đựng tất cả

118. Panta hypomenei có nghĩa là [tình yêu] chấp nhận mọi sự trái ý với một tinh thần tích cực. Nghĩa là [tình yêu thì] đứng vững ngay giữa lòng môi trường thù nghịch. Không chỉ liên quan đến việc chịu đựng một số phiền hà, mà còn hơn thế nữa: một sự đề kháng năng động và liên tục, có khả năng vượt qua mọi thách đố. Đó là một tình yêu bất chấp tất cả, ngay cả trong những lúc hoàn cảnh lôi kéo sang hướng khác. Nó chứng tỏ một mức độ anh hùng can trường nào đó, một sức mạnh chống lại mọi trào lưu tiêu cực, một chọn lựa điều thiện không gì có thể lật đổ. Ở đây tôi nhớ đến những lời của Martin Luther King, khi xác nhận lại lựa chọn tình huynh đệ ngay giữa các cuộc bách hại và bị sỉ nhục tồi tệ nhất: “Nơi người ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào đó; và ngay cả nơi dân tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào đó; thậm chí nơi chủng tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào đó. Khi bạn bắt đầu nhìn vào gương mặt của mỗi con người và thấy trong nơi thâm sâu con người ấy điều mà tôn giáo gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa”, thì bạn bắt đầu yêu người ấy bất kể mọi sự. Dù người ấy có làm gì đi nữa, bạn vẫn thấy hình ảnh của Thiên Chúa ở đó. Có một yếu tố của sự thiện mà bạn không bao giờ có thể vứt bỏ được… Đây là một cách khác để bạn yêu kẻ thù: khi có cơ hội để bạn đánh bại kẻ thù, thì đó là lúc bạn phải quyết định không được làm thế… Khi bạn vươn lên tới bình diện tình yêu, tới bình diện của vẻđẹp và sức mạnh lớn lao của tình yêu, thì điều duy nhất bạn tìm cách đánh bại là những hệ thống sự dữ. Đối với những cá nhân bị mắc kẹt trong hệ thống ấy, bạn hãy yêu họ nhưng phải tìm cách đánh bại hệ thống đó […] Lấy oán báo oán thì chỉ gia cố thêm sự tồn tại của oán hận và sự dữ trên đời này. Nếu tôi đánh bạn và bạn đánh tôi, và rồi tôi đánh trả lại bạn, và bạn đánh trả lại tôi, cứ tiếp tục như thế, thì đương nhiên, sẽ tiếp tục mãi không cùng. Đơn giản là sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ phía nào đó phải có người biết điều một chút, và đó là người mạnh. Người mạnh là người có thể chặt đứt dây xích oán hận, dây xích của sự dữ… Một ai đó phải có đủ ‘lòng tin’ và có ‘đạo đức’ để chặt đứt dây xích ấy và đưa vào trong chính cấu trúc của thế giới này yếu tố tình yêu mạnh mẽ đầy quyền năng”. (114)

119. Trong đời sống gia đình, cần vun xới sức mạnh của tình yêu này, điều giúp chúng ta chiến đấu chống lại sự dữ đe dọa gia đình. Tình yêu không để mình bị không chế bởi lòng oán hận, bởi sự coi thường người khác, bởi ước muốn gây tổn thương hoặc trả thù. Lí tưởng Kitô giáo, đặc biệt trong gia đình, là tình yêu bất chấp mọi sự. Đôi khi, tôi ngưỡng mộ, chẳng hạn như, thái độ của những người đã phải chia tay với người bạn đời để tự bảo vệ mình khỏi bạo hành, tuy nhiên, vì tình bác ái phu phụ vốn vượt qua cảm tính, họ vẫn cố gắng giúp đỡ người bạn đời, dù qua trung gian nhờ một người khác, trong những khi người bạn đời đau ốm, gặp đau khổ hay hoạn nạn. Đây cũng là một tình yêu bất chấp tất cả.

Tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót,
ngày 19 tháng 3, lễ trọng Thánh Giuse, năm 2016,
năm thứ tư triều Giáo Hoàng của tôi.
PHANXICÔ

Nguồn: hdgmvietnam.com

_________________________

Chú thích:

(104) GLHTCG, 1641.

(105) Cf. DCE, 2: AAS 98 (2006), 218.

(106) Inhaxiô Loyola, Linh thao, Chiêm ngắm để được tình yêu (Esercizi spirituali, Contemplazione per raggiungere l’amore), 230.

(107) Octavio Paz, La llama doble, Barcelona 1993, 35.

(108) ST II-II, q. 114, a. 2, ad 1.

(109) HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

(110) ST II-II, q. 27, a. 1, ad 2.

(111) ST II-II, q. 27, a. 1.

(112) HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

(113) FC, 21: AAS 74 (1982), 106.

(114) Martin Luther King Jr., Bài giảng trong Nhà thờ Battista ở Dexter Avenue, Montgomery, Alabama, 17.11.1957.

* Tin, bài liên quan:

TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA – NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU (1)

TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA – NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU (2)

TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA – NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU (3)