Thư của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gởi phụ nữ toàn thế giới (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 1354 | Cật nhập lần cuối: 3/7/2016 7:35:31 PM | RSS

Nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ, BBT xin giới thiệu với bạn đọc Thư của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gởi phụ nữ toàn thế giới, viết từ năm 1995, nhưng suy tư cũng như tâm tình của ngài vẫn mang tính thời sự.

*

Tôi gởi lời chào thân tình nhất tới tất cả chị em phụ nữ toàn thế giới!

Thư của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gởi phụ nữ toàn thế giới (1)1. Tôi xin gởi thơ này đến từng người trong chị em làm dấu chỉ chia sẻ và biết ơn, đang khi gần tới kỳ Hội Nghị Thế Giới lần thứ tư về Phụ Nữ, sắp họp tại Bắc Kinh vào tháng 9 tới đây.

Trước hết tôi muốn nói với Tổ chức Liên Hiệp Quốc là tôi tán thành sáng kiến có tầm quan trọng lớn lao do Liên Hiệp Quốc chủ xướng. Giáo Hội, về phần mình, muốn đóng góp vào việc bênh vực phẩm giá, vai trò và những quyền lợi các người nữ, không những bằng phần đóng góp đặc biệt của Phái đoàn chính thức của Toà Thánh cho công việc tại Bắc Kinh, nhưng Giáo Hội cũng trực tiếp nói với con tim và tâm trí của các người nữ. Mới đây, nhân cuộc bà Gertrude Mongella, Tổng Thư Ký Hội Nghị, đến viếng thăm tôi vì cuộc Hội Nghị quan trọng này, tôi có ý trao cho bà một Sứ Điệp trình bày một số điểm căn bản thuộc huấn giáo của Giáo Hội về và án đề này.

Đây là một Sứ Điệp, ngoài biến cố chính xác linh hứng nó, mở ra một viễn ảnh phổ quát hơn thuộc thực tại và những vấn đề của toàn thể người nữ, giúp ích cho quyền lợi của họ trong Giáo Hội và trong thế giới hiện nay. Do đó, tôi quyết định gởi Sứ Điệp này tới tất cả các Hội Đồng Giám Mục để được phổ biến rộng rãi nhất.

Từ những gì tôi đã viết trong tài liệu này, bây giờ tôi muốn nói trực tiếp với mỗi người nữ ngõ hầu suy tư với họ về những án đề và những viễn ảnh của địa vị người nữ trong thời đại chúng ta, dừng lại cách riêng trên chủ đề thiết yếu thuộc phẩm giá và các quyền lợi người nữ dưới ánh sáng Lời Chúa.

Khởi điểm việc bắt đầu cuộc đối thoại này chỉ có thể là một tiếng cám ơn. Như tôi đã viết trong Tông thư Mulieris dignitatem, Giáo Hội "ao ước tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì 'mầu nhiệm người nữ' và vì tất cả người nữ, vì những gì cấu tạo nên chiều kích vĩnh cửu của phẩm giá người nữ, vì những 'sự lạ lùng' của Thiên Chúa, được thực hiện nơi người nữ và qua người nữ, trong lịch sử các thế hệ loài người" (n. 31).

2. Lời cảm tạ dâng lên Chúa, vì ý định của Người đối với ơn gọi và sứ mệnh người nữ trong thế giới, cũng trở thành một lời cám ơn cụ thể và trực tiếp đối với các người nữ, mỗi một người nữ, vì những gì họ phô diễn trong đời sống nhân loại.

Cảm ơn chị, hỡi người nữ-mẹ, chị tiếp nhận trong lòng chị hữu thể nhân bản với niềm vui và sự cực nhọc của một kinh nghiệm duy nhất, do kinh nghiệm đó chị trở nên sự mỉm cười của Chúa đối với đứa con ra đời, chị trở nên kẻ hướng dẫn những bước đi đầu tiên của nó, nâng đỡ sự lớn lên của nó, rồi trở nên mục tiêu trên con đường sự sống của nó.

Cảm ơn chị, hỡi người nữ-vợ, chị liên kết cách bất di dịch vận mạng của chị với vận mạng một người nam, trong một quan hệ trao thân cho nhau, để phục vụ sự hiệp thông và sự sống.

Cảm ơn chị, hỡi người nữ-con và người nữ-chị, chị mang vào nhà của gia đình, rồi trong cảnh phức tạp đời sống xã hội, những phong phú thuộc tính đa cảm của chị, thuộc trực giác của chị, thuộc lòng quảng đại của chị và thuộc sự kiên nhẫn của chị.

Cảm ơn chị, người nữ-lao công, dấn thân vào trong tất cả các lãnh vực thuộc đời sống xã hội, kinh tế, và văn hoá, nghệ thuật, chính trị, vì sự góp phần của chị, không thay thế được, vào việc xây dựng một nền văn hoá có khả năng liên hợp lý trí và tình cảm, vào một quan niệm về sự sống luôn luôn mở ra theo nghĩa "mầu nhiệm", vào sự thiết lập những cấu trúc kinh tế và chính trị phong phú hơn về mặt nhân loại.

Cảm ơn chị, người nữ-thánh hiến, theo sau người nữ cao cả nhất là Mẹ Chúa Kitô Ngôi Lời nhập thể, chị tự mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa cách hết sức ngoan ngoãn và trung thành, nhờ vậy chị giúp Giáo Hội và toàn thể nhân loại dâng lên Chúa một câu trả lời "có tính hiền thê" (réponse sponsale), diễn tả cách kỳ diệu sự hiệp thông Chúa muốn thiết lập với thọ tạo của Người.

Cảm ơn chị, người nữ, chỉ vì chị là phụ nữ ! Nhờ tri giác xứng hợp với nữ tính của chị, chị làm giàu cho sự hiểu biết về thế giới và chị góp phần vào chân lý hoàn hảo của những liên quan nhân bản.

3. Nhưng tôi biết điều đó, tiếng cảm ơn không chưa đủ. Vô phúc thay chúng ta đã thừa hưởng một lịch sử có quá nhiều qui định mà, trong mọi thời gian và không gian, đã gây khó khăn cho đường đi của người nữ, phủ nhận phẩm giá người nữ, biến chất những đặc quyền người nữ, thường loại người nữ ra bên lề và còn bắt người nữ sống cảnh nô lệ.

Tất cả những thứ đó đã ngăn cản người nữ làm người nữ cách trọn vẹn, và đã tước đoạt toàn thể nhân loại những kho tàng thiêng liêng chính hiệu nhất. Chắc không dễ gì nhận định những trách nhiệm đích xác, vì trọng lượng của những sự kết tầng (sédimentation) văn hoá, qua bao thế kỷ, đã hình thành những não trạng và những cơ chế.

Nhưng nếu trong lãnh vực này, người ta không thể phủ định, nhứt là trong một số bối cảnh lịch sử, trách nhiệm khách quan của nhiều người con Giáo Hội, thì tôi chân thành hối tiếc điều đó. Chớ gì sự hối tiếc đó có thể diễn dịch, đối với tất cả Giáo Hội, qua cố gắng lấy lại lòng trung thành với linh hứng Phúc Âm, sự linh hứng này, chính trên chủ đề giải phóng người nữ khỏi mọi hình thức bất công và thống trị, chứa đựng một sứ điệp luôn có tính thời sự phát xuất từ chính thái độ của Chúa Kitô. Chúa Kitô vượt qua mọi qui định thịnh hành trong văn hoá thời đại Người, duy trì đối với người nữ một thái độ cởi mở, tôn trọng, tiếp rước, dịu hiền. Như vậy Chúa Kitô tôn trọng nơi người nữ cái phẩm giá họ luôn có được trong ý đồ và trong tình yêu của Thiên Chúa.

Khi quay hướng về Người lúc kết thúc ngàn năm thứ hai, tự nhiên chúng ta hỏi mình sứ điệp của Người đã được lãnh nhận và đem ra thực hành tới đâu rồi.

Vâng, đã tới lúc, với lòng can đảm của trí nhớ và sự nhìn nhận thành thực những trách nhiệm, phải xem xét lịch sử lâu dài của nhân loại, một nhân loại đã được người nữ góp phần không thua kém người nam, và thường là trong những điều kiện khó khăn hơn nhiều.

Đặc biệt tôi nghĩ tới những người nữ ưa thích văn hoá và nghệ thuật, và đã hiến mình vào đó tuy khởi đầu từ những hoàn cảnh bất lợi, thường không được hưởng nền giáo dục ngang với người nam, liều bị đánh giá quá thấp, liều thấy sự đóng góp trí tuệ của mình bị phủ nhận hay có khi bị tước đoạt. Vô phúc thay, tuy các người nữ trong lịch sử hoạt động nhiều như thế, mà rất ít sự việc được ghi nhận qua các dụng cụ của khoa chép sử khoa học.

Nhưng cũng may, nếu thời gian đã chôn vùi những tài liệu mang dấu vết của những sự việc đó, thì không thể không cảm thấy những hiệu quả tốt của chúng trong chất nhựa đã nuôi dưỡng các thế hệ kế tiếp nhau tới thời chúng ta. Nhân loại nợ một món nợ không tính được đối với "truyền thống" phụ nữ vĩ đại và mênh mông này. Biết bao người nữ đã bị và còn bị đánh giá theo phương diện thể lý hơn là theo khả năng của họ, theo giá trị nghề nghiệp của họ, theo sinh hoạt trí thức của họ, theo sự phong phú thuộc tình cảm của họ và, sau hết, theo chính phẩm giá thuộc hữu thể của họ !

4. và nói gì về những cản trở mà, trong nhiều nơi trên thế giới, còn ngăn cản phụ nữ góp phần cách đầy đủ trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế ? Chỉ cần nghĩ rằng hồng ân được làm mẹ thường bị vạ hơn là được quí trọng, đang khi nhân loại nhờ đó mà sống còn.

Chắc chắn còn nhiều việc phải làm để thân phận người nữ và người mẹ không còn bị kỳ thị nữa. Điều khẩn cấp là đạt được khắp nơi sự bình đẳng thật sự về các quyền lợi con người, tức là tiền lương đồng đều cho một công việc ngang nhau, sự bảo vệ những bà mẹ lao động, sự thăng tiến trong nghề, quyền bình đẳng vợ chồng trong gia đình, sự nhìn nhận tất cả những gì liên kết với những quyền lợi và nhiệm vụ của người công dân trong một chế độ dân chủ. Đó là một hành vi công bằng, mà cũng là một sự cần thiết. Trong nền chính trị mai sau, người nữ sẽ luôn luôn dính líu hơn trong những vấn đề trầm trọng được tranh cãi bây giờ: thời giờ rảnh rỗi, chất lượng sự sống, những di dân, những phục vụ xã hội, sự chết êm dịu, thuốc chích, sức khoẻ và những chăm sóc, sinh thái học, v.v... Trong tất cả các lãnh vực này, thấy sự hiện diện dũng cảm xã hội của người nữ là quí báu, bởi vì người nữ sẽ góp phần bày tỏ những mâu thuẫn của một xã hội được tổ chức chỉ trên những tiêu chuẩn của hiệu lực và sản suất, và người nữ sẽ bắt buộc tái xác định những hệ thống, có lợi cho những những diễn tiến nhân đạo hoá, biểu thị đặc tính riêng "cho nền văn minh tình yêu".

5. Khi xem xét một trong những khía cạnh tế nhị nhất của thân phận người nữ trong thế giới, làm sao mà không nhắc tới lịch sử lâu dài và nhục nhã - thường là "bí ẩn" (souterraine)- của những lạm dụng phản lại người nữ trong lãnh vực tình dục ? Sắp bước sang ngàn năm thứ ba, chúng ta không thể thản nhiên trước hiện tượng này, cũng không thể cam chịu vậy. Tới lúc phải mạnh mẽ lên án, bằng cách khơi lên những phương tiện lập pháp xứng hợp để ngăn cấm, những hình thức bạo tàn tình dục thường lấy người nữ làm đối tượng.

Nhân danh sự tôn trọng con người, chúng ta cũng không thể không tố cáo nền văn hoá theo chủ nghĩa khoái lạc và thương mại rất phổ biến, quảng cáo việc khai thác có hệ thống tình dục, thúc ép chính những em gái tuổi còn bé ngã nhào vào trong những mạch hư đốn và biến thân xác mình thành một món hàng.

Trước những trụy lạc như vậy, ngược lại, đáng ca ngợi biết bao, những người nữ, vì tình yêu anh hùng đối với con mình, vẫn tiếp tục cưu mang bào thai hình thành do sự bất công của những quan hệ tình dục bị cưỡng ép, và điều đó xảy ra không những trong khuôn khổ những sự tàn bạo, vô phúc xảy ra trong những bối cảnh chiến tranh còn rất thường trong thế giới, nhưng cũng xảy ra trong những hoàn cảnh an lạc và hoà bình, những hoàn cảnh thường bị ung thối do một nền văn hoá cho phép thụ hưởng khoái lạc, nơi dễ dàng phát sinh những khuynh hướng bộc lộ nam tính cách hiếu chiến ! Trong những hoàn cảnh thể ấy, việc chọn lựa phá thai, luôn luôn là một trọng tội, trước lúc gán trách nhiệm cho người nữ, là một tội ác phải đổ lỗi cho người nam và cho sự đồng loã của môi trường sống.

6. Việc cám ơn của tôi đối với người nữ, tức là kêu nài tất cả mọi người, cách riêng các Quốc Gia và những cơ chế quốc tế, làm những gì phải làm để phẩm giá và vai trò người nữ được tôn trọng đầy đủ.

Về vấn đề này, tôi không thể không bày tỏ lòng khâm phục của tôi đối với những người nữ thiện chí đã tự hiến mình bênh vực phẩm giá của địa vị người nữ, nhờ sự thu phục những quyền căn bản trên các mặt xã hội, kinh tế và chính trị, và đối với những người nữ đã can đảm đưa ra sáng kiến này trong những thời điểm mà sự dấn thân của họ bị coi như là một hành vi phạm pháp, một dấu thiếu nữ tính, một sự phát lộ chứng phô bày, có khi là là một tội !

Như tôi đã viết trong Sứ Điệp Ngày Quốc Tế Hoà Bình năm nay, khi xem xét diễn tiến cả thể của sự giải phóng phụ nữ, người ta có thể nói rằng con đường này "đã là khó nhọc và phức tạp, thỉnh thoảng có lầm lẫn, nhưng tích cực về bản chất, cho dầu nó chưa hoàn tất do nhiều ngăn trở mà trong nhiều vùng thế giới, ngăn cản người nữ được biết, được tôn trọng và đánh giá trong phẩm giá riêng của họ" (n. 4).

Phải kiên nhẫn trong con đường này! Nhưng, tôi xác tín rằng bí mật để nhanh chóng vượt qua con đường tôn trọng đầy đủ căn tính người nữ, không những phải qua sự tố giác, mặc dầu đó là cần thiết, những kỳ thị và những bất công, mà còn và hơn hết phải qua một dự án thăng tiến cũng hiệu nghiệm như được soi sáng, bao gồm tất cả các lãnh vực thuộc đời sống người nữ, khởi sự từ việc có ý thức đổi mới và phổ biến về phẩm giá người nữ. Chính lý trí chấp nhận lề luật Chúa ghi trong lòng mọi người, thì cũng làm chúng ta nhận biết phẩm giá này mặc dầu có nhiều qui định lịch sử của nó. Nhưng Lời Chúa hơn hết cho phép chúng ta nhận rõ nền tảng nhân loại học căn nguyên của phẩm giá người nữ, khi cho chúng ta thấy nó trong ý đồ của Thiên Chúa trên nhân loại.

7. vậy, thưa chị em quí mến, chị em hãy chấp nhận cho tôi cùng với chị em suy tư lại trang Thánh Kinh kỳ diệu diễn tả việc sáng tạo con người, và phát biểu nhiều điều về phẩm giá của chị em và về sứ mệnh của chị em trong thế giới.

Sách Sáng Thế nói về việc sáng tạo một cách tổng hợp và trong một ngôn ngữ thi vị và biểu trưng, nhưng chân thực sâu sắc: "Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1, 27). Hành vi sáng tạo của Thiên Chúa dàn ra theo một đồ án nhứt định. Trước hết, nói rằng con người được làm ra theo hình ảnh và nên giống Thiên Chúa (x. St 1, 26), cách nói làm sáng tỏ tức thì đặc tính riêng biệt của con người trong toàn thể công trình sáng tạo.

Tiếp theo nói con nguời được tạo nên "có nam có nữ" (St 1, 27), ngay từ đầu. Chính Kinh Thánh cung cấp việc giải thích yếu tố này: mặc dầu được bao vây bởi những thọ tạo nhiều vô số trong thế giới hữu hình, con người vẫn cảm thấy mình cô đơn (x. St 2, 20). Thiên Chúa can thiệp đưa con nguời ra khỏi cảnh cô đơn này: "Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó" (St 2, 18). Như vậy, từ đầu, nguyên lý trợ tá đã được viết trong việc sáng tạo người nữ: trợ tá -chúng ta hãy nhớ kỹ- không phải đơn phương, nhưng hỗ tương. Người nữ là tuỳ thể (complément) của người nam, cũng như người nam là tuỳ thể của người nữ: người nữ và người nam bổ sung cho nhau. Nữ tính thực hiện "nhân bản" cũng y như nam tính, nhưng theo một hoà điệu khác biệt và bỗ sung.

Khi sách Sáng thế nói tới "trợ tá", sách ấy không những qui chiếu về lãnh vực hành động, mà còn về lãnh vực hữu thể. Nữ tính và nam tính bỗ sung cho nhau, không những về phương diện thể lý và tâm lý, nhưng thực thể nữa. Chỉ nhờ tính nhị nguyên của "nam tính" và của "nữ tính" mà "con người" được thể hiện đầy đủ.

Từ Vatican, ngày 29 tháng 6 năm 1995, ngày lễ trọng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

Ngày 29.6.1995

+ Gioan-Phaolô II

Chuyển ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách
Nguồn: VCN (18.3.2001).