Tông huấn Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế - Redemptoris Custos (2)
(tiếp theo)
Đức Giêsu sinh sống và được dưỡng dục tại Nadarét
16. Đức Giêsu lớn lên “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52), được diễn ra trong khung cảnh Thánh gia, dưới sự chăm sóc của Thánh Giuse, người có trách nhiệm cao trọng “dưỡng dục”, nghĩa là lo cơm ăn áo mặc, và dạy Người về Lề Luật và một nghề nghiệp, theo bổn phận của một người cha.
Trong hiến tế Thánh Thể, Giáo hội kính nhớ Mẹ Maria trọn đời đồng trinh và Thánh Giuse (29) vì “Ngài đã nuôi dưỡng Đấng mà người tín hữu phải nhận lấy mà ăn như bánh trường sinh” (30).
Về phần mình, Đức Giêsu “hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2, 51), kính cẩn đền đáp những chăm sóc của “cha mẹ Người.” Nhờ thế, Người muốn thánh hoá những bổn phận của đời sống gia đình và lao động mà Người thi hành bên cạnh Thánh Giuse.
III. NGƯỜI CÔNG CHÍNH - VỊ PHU QUÂN
17. Trong suốt cuộc sống, một cuộc lữ hành đức tin, Thánh Giuse cũng như Mẹ Maria, luôn trung thành đến cùng với tiếng gọi của Thiên Chúa. Trong khi cuộc đời Mẹ Maria là sự thể hiện tột cùng lời xin vâng đầu tiên được thốt lên lúc Truyền tin, còn Thánh Giuse như chúng ta đã nói, Ngài chẳng nói gì khi được “truyền tin”: mà chỉ “làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1, 24). Và “việc làm” đầu tiên này khai mào cho “lộ trình của Giuse.” Các sách Tin Mừng không ghi lại bất cứ lời nói nào của Thánh Giuse trong suốt hành trình này. Nhưng sự im lặng của Thánh Giuse có tầm mức đặc biệt: vì nhờ sự im lặng này chúng ta có thể hiểu được đầy đủ sự thật hàm chứa trong nhận định của Tin Mừng về Thánh Giuse: là “một người công chính” (Mt 1, 19).
Cần phải hiểu rõ sự thật này, vì sự thật này chứa đựng một trong những chứng từ quan trọng nhất liên quan đến thân thế và ơn gọi của Ngài. Qua nhiều thế hệ, Giáo hội đã đọc những chứng từ này ngày càng chăm chú hơn với mức hiểu biết sâu xa hơn, dường như Giáo hội rút ra từ kho tàng của dung mạo đặc biệt này “cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13, 52)
18. Trước hết, người “công chính” làng Nadarét có các tính chất rõ nét của một người chồng. Luca nói về Mẹ Maria như là “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse” (Lc 1, 27). Thậm chí trước khi “mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (Ep 3, 9) bắt đầu được thành toàn, các sách Tin Mừng trình bày trước mắt chúng ta hình ảnh người chồng và người vợ. Theo phong tục Do Thái, hôn nhân chia thành hai giai đoạn: trước hết, người ta lập hôn thú theo pháp luật (hôn nhân thực sự) và sau đó một thời gian, người chồng mới đưa vợ về nhà mình. Do đó, trước khi chung sống với Mẹ Maria, Thánh Giuse đã là “chồng” của Mẹ Maria rồi. Tuy nhiên, Mẹ Maria vẫn giữ trong lòng ước muốn tận hiến cho Thiên Chúa. Người ta có thể thắc mắc làm sao ước muốn này của Mẹ Maria lại có thể tương thích với việc “hôn nhân” được. Câu trả lời chỉ có thể đến từ các biến cố cứu độ đã xảy ra do hành động đặc biệt của chính Thiên Chúa. Từ lúc Truyền tin, Mẹ Maria biết rằng Mẹ phải thể hiện mong ước sống khiết tịnh để tận hiến hoàn toàn và trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa bằng cách trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa. Trở thành người mẹ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần là một hình thức được Mẹ chấp nhận qua việc tự hiến, một hình thức được Thiên Chúa mong đợi nơi Trinh Nữ Maria, người đã “đính hôn” với Giuse. Mẹ Maria đã nói lên lời xin vâng. Sự kiện Mẹ Maria “đính hôn” với Giuse là một phần trong chính chương trình của Thiên Chúa. Điều này được hai Thánh sử Luca và nhất là Mátthêu nêu rõ. Những lời Thiên Chúa nói với Thánh Giuse rất có ý nghĩa: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 20). Những lời này giải thích mầu nhiệm về người vợ của Giuse: Trong chức làm mẹ, Mẹ Maria là một trinh nữ. Nơi Mẹ,“Con của Đấng Tối Cao” mặc lấy xác phàm và trở thành “Con của loài người.”
Khi ngỏ lời với Thánh Giuse qua lời của sứ thần, Thiên Chúa nói với Ngài như nói với người chồng của Trinh nữ làng Nadarét. Điều xảy ra nơi Mẹ bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần cũng xác nhận một cách đặc biệt mối liên kết hôn nhân đã có giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria. Sứ thần của Thiên Chúa đã nói rõ ràng với Thánh Giuse: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về.” Như thế, điều đã xảy ra trước đây, là cuộc hôn nhân giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria, là do thánh ý Thiên Chúa và vì vậy phải được duy trì. Trong thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Maria phải tiếp tục sống như “một trinh nữ đã đính hôn với một người nam” (x. Lc 1, 27).
19. Trong những lời “truyền tin” vào ban đêm, Thánh Giuse không chỉ được nghe sự thật Thiên Chúa cho biết về ơn gọi khôn tả của vợ mình, mà còn được nghe lại một lần nữa sự thật về ơn gọi của chính mình. Trong tinh thần truyền thống cao quý nhất của Dân được tuyển chọn, con người “công chính” này đã yêu thương trinh nữ làng Nadarét và gắn bó với nàng bằng tình yêu của người chồng, một lần nữa, lại được Thiên Chúa kêu gọi để yêu thương như vậy.
“Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ” về nhà mình (Mt 1, 24); vì người Con trong lòng Mẹ Maria là “bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.” Từ những kiểu nói như thế, chúng ta lại không thể kết luận rằng, nơi Thánh Giuse, tình yêu của một người nam, cũng được Chúa Thánh Thần đổi mới hay sao? Chúng ta lại chẳng nghĩ rằng tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ xuống trái tim con người qua Chúa Thánh Thần (x. Rm 5, 5) đã tác động vào mọi tình yêu nhân loại một cách hoàn hảo nhất hay sao? Tình yêu Thiên Chúa – theo một cách thế hoàn toàn độc đáo – cũng tác động vào tình yêu giữa chồng và vợ, làm sâu sắc thêm nơi tình yêu đó những gì là giá trị và tươi đẹp của con người, những gì chứng tỏ một tự hiến tuyệt đối, một giao ước liên vị, và một hiệp thông đích thực theo gương mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Giuse… đón vợ về nhà; nhưng ông không ăn ở với bà, cho tới khi bà sinh một con trai” (Mt 1,24-25). Những lời này nói đến một nét thân mật khác trong hôn nhân. Sự mật thiết tinh thần sâu xa phát sinh từ hợp nhất hôn nhân và sự tiếp xúc liên vị giữa nam và nữ có nguồn gốc tối hậu trong Thánh Thần, Đấng ban sự Sống (x. Ga 6, 63). Khi tuân lời Thánh Thần, Thánh Giuse gặp được nơi Thánh Thần cội nguồn tình yêu, tình yêu của một người chồng, và tình yêu này lớn lao hơn điều “người công chính” ấy đã từng mong đợi theo giới hạn con tim nhân loại của mình.
20. Trong Phụng vụ, Mẹ Maria được mừng kính như là người đã “kết hiệp với Giuse, người công chính, bằng mối dây liên kết hôn nhân và tình yêu tinh tuyền.” (31) Ở đây thực sự có hai loại tình yêu, cả hai đều biểu thị mầu nhiệm Giáo hội – trinh nữ và hiền thê, tượng trưng qua hôn nhân của Mẹ Maria và Thánh Giuse. “Sự trinh khiết và độc thân vì Nước Trời không làm giảm bớt chút nào phẩm giá của hôn nhân, ngược lại, chúng giả thiết phải có phẩm giá ấy và củng cố nó. Hôn nhân và trinh khiết là hai cách diễn tả và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người.” (32) Giao ước ấy là sự hiệp thông tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người.
Qua sự tự hiến hoàn toàn, Thánh Giuse biểu lộ tình yêu quảng đại Ngài dành cho Mẹ Thiên Chúa, và tặng cho bà “món quà tự hiến” của một người chồng. Mặc dù Giuse đã quyết định rút lui để không cản trở kế hoạch Thiên Chúa đang diễn ra nơi Mẹ Maria, nhưng theo mệnh lệnh rõ ràng của sứ thần, Ngài đón Mẹ Maria về nhà mình, trong khi vẫn tôn trọng việc Mẹ chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi.
Đàng khác, do kết hôn với Mẹ Maria mà Thánh Giuse nhận được phẩm giá duy nhất và các quyền của mình đối với Đức Giêsu. “Chắc chắn phẩm giá của Mẹ Thiên Chúa cao quý đến độ không gì có thể trổi vượt hơn. Nhưng vì Thánh Giuse hợp nhất với Mẹ Maria bằng mối dây hôn nhân, nên không chút nghi ngờ rằng ngoài Thánh Giuse, chẳng có ai khác tiến gần đến mức phẩm giá cao quý ấy, mà nhờ đó Mẹ Thiên Chúa trổi vượt trên mọi thụ tạo. Vì hôn nhân là sự hiệp thông và tình bạn cao cả nhất, do chính bản chất đã bao hàm việc chia sẻ những điều thiện hảo, nên Thiên Chúa, khi ban tặng Thánh Giuse cho trinh nữ Maria, thì không chỉ như một người bạn đời, một chứng nhân cho sự trinh khiết hay người bảo vệ thanh danh của Mẹ, mà còn để Thánh Giuse có thể – nhờ giao ước hôn nhân – được chia sẻ sự vĩ đại trổi vượt của Mẹ nữa.” (33)
21. Mối dây đức ái đó đã làm nên nếp sống của Thánh gia, trước tiên nơi cảnh nghèo khó của Bêlem, rồi trong cuộc lưu lạc sang Ai Cập, và sau cùng trong đời sống tại Nadarét. Giáo hội tôn kính Gia đình thánh này một cách sâu xa, và đặt làm gương mẫu cho mọi gia đình. Gia đình Nadarét vừa hội nhập trực tiếp vào mầu nhiệm Nhập thể vừa làm nên một mầu nhiệm đặc biệt của riêng mình. Đồng thời, trong mầu nhiệm này - cũng như trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta thấy có tình phụ tử đích thực: gia đình của Con Thiên Chúa mang hình thức nhân loại, một gia đình trần thế thực sự, lại được hình thành bởi mầu nhiệm thánh. Trong gia đình này, Thánh Giuse là người cha: tư cách làm cha của Ngài không do việc sinh con; cũng chẳng phải làm cha “bề ngoài” hoặc chỉ “thay thế” mà thôi, nhưng có đầy đủ tính cách đích thực của quyền làm cha theo khía cạnh nhân loại và của vai trò làm cha trong gia đình. Ở đây ta nhận thấy một hệ quả của mầu nhiệm ngôi hiệp: nhân tính được hiệp nhất với Ngôi vị Thiên Chúa của Ngôi Lời, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Và cùng với nhân tính ấy, tất cả những gì thuộc về con người, đặc biệt là gia đình, như là khung cảnh đầu tiên của con người nơi trần thế này, cũng được “tiếp nhận” vào trong Đức Kitô. Trong bối cảnh đó, cả quyền làm cha theo khía cạnh con người của Thánh Giuse cũng được “tiếp nhận” trong mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô. Trên cơ sở nguyên tắc này, những lời Mẹ Maria nói với con trẻ Giêsu trong Đền thờ mang một ý nghĩa sâu xa: “Cha con và mẹ… đi tìm con.” Đây không phải là câu nói chiếu lệ: Những lời của Mẹ Đức Giêsu bày tỏ đầy đủ thực tại của việc Nhập thể hiện diện trong mầu nhiệm Gia đình Nadarét. Ngay từ đầu, khi “vâng phục trong đức tin”, Thánh Giuse đã chấp nhận vai trò làm cha trần thế của Đức Giêsu. Và vì thế nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban chính mình Ngài cho con người qua đức tin, chắc chắn Thánh Giuse ngày càng khám phá trọn vẹn hơn món quà khôn tả là vai trò làm cha của mình.
IV. LAO ĐỘNG, MỘT CÁCH DIỄN TẢ TÌNH YÊU
22. Lao động là một trong những biểu hiện thường nhật của tình yêu trong cuộc sống Gia đình Nadarét. Bản văn Tin Mừng nói rõ loại công việc mà Thánh Giuse làm để nuôi sống gia đình mình: nghề thợ mộc. Từ đơn giản này tóm gọn toàn bộ cuộc sống của Thánh Giuse. Đối với Đức Giêsu, đây là những năm ẩn dật, những năm mà Tin Mừng nói đến sau câu chuyện xảy ra trong Đền thờ: “Và Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51). Sự “phục tùng” hoặc vâng lời của Đức Giêsu trong nhà Nadarét cần được hiểu như là một sự chia sẻ trong lao động với Giuse. Trong khi học việc với người được coi là cha mình, Đức Giêsu được gọi là “con của ông thợ mộc.” Nếu Gia đình Nadarét là tấm gương và là mẫu mực cho các gia đình khác trong việc cứu độ và nên thánh, thì lao động của Đức Giêsu bên cạnh ông thợ mộc Giuse cũng tương tự như thế. Trong thời đại chúng ta, ngoài các ý nghĩa khác, Giáo hội nhấn mạnh đến giá trị lao động bằng cách quy định phụng vụ kính Thánh Giuse Thợ vào ngày 1 tháng Năm. Lao động của con người, nhất là lao động tay chân, được đặc biệt nhấn mạnh trong Tin Mừng. Cùng với nhân tính của Con Thiên Chúa, lao động cũng được đưa vào trong mầu nhiệm Nhập thể, và cũng được cứu chuộc theo cách đặc biệt. Tại xưởng mộc nơi Ngài miệt mài làm việc với Đức Giêsu, Thánh Giuse đưa lao động con người đến gần mầu nhiệm Cứu chuộc hơn.
23. Trong thời gian Chúa Giêsu lớn lên “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa”, có một đức tính rất quan trọng: lương tâm nghề nghiệp, vì “lao động là điều thiện hảo nơi con người”, nó “biến đổi thiên nhiên” và biến con người “theo một nghĩa nào đó, thành người hơn.” (34) Tầm quan trọng của lao động trong đời sống con người đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt và tiếp thu các yếu tố của nó để “giúp mọi người đến gần hơn với Thiên Chúa, Đấng Tạo hoá và là Đấng Cứu chuộc, để tham dự vào kế hoạch cứu độ con người và thế giới, và để đào sâu hơn tình bạn với Đức Kitô trong cuộc sống của họ, qua việc tham dự bằng đức tin sống động vào ba sứ vụ của Người là: Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả.” (35)
24. Cuối cùng là việc thánh hoá cuộc sống hằng ngày, một sự thánh hoá mà mỗi người phải đạt được tuỳ theo bậc sống của mình, theo một mẫu gương mà ai cũng có thể bắt chước: “Thánh Giuse là gương mẫu của những người khiêm hạ mà Kitô giáo có thể dẫn đưa tới những vận mệnh cao cả; Ngài là bằng chứng cho thấy rằng để trở thành một môn đệ tốt và chân chính của Đức Kitô, không cần phải làm những “việc vĩ đại”: chỉ cần các nhân đức thông thường, đơn sơ và nhân bản, nhưng phải là những nhân đức thực sự và chân chính.” (36)
V. TÍNH ƯU VIỆT CỦA ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
25. Bầu khí thinh lặng bao quanh những gì liên quan đến khuôn mặt Thánh Giuse cũng lan tỏa đến công việc của người thợ mộc trong mái nhà Nadarét. Tuy nhiên, chính sự thinh lặng ấy bộc lộ cách đặc biệt chân dung nội tâm của Ngài. Các sách Tin Mừng chỉ đề cập đến những việc Giuse “làm”, nhưng cho phép chúng ta khám phá trong những ”hoạt động” của Ngài, luôn thấm nhuần sự thinh lặng, một bầu khí chiêm niệm sâu xa. Thánh Giuse vẫn tiếp xúc hằng ngày với mầu nhiệm “bị che giấu từ bao đời,” và đang “cư ngụ” dưới mái nhà của Ngài. Điều này giải thích, chẳng hạn, tại sao thánh nữ Têrêsa Giêsu, nhà cải tổ lớn của các Nữ tu dòng chiêm niệm Cát Minh, lại đã trở nên người cổ võ việc sùng kính Thánh Giuse trong Kitô giáo Tây phương.
26. Trong suốt cuộc đời, Thánh Giuse đã thể hiện một sự hiến dâng tuyệt đối cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi của Đấng Thiên sai đến trong nhà mình, điều này chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng đời sống nội tâm sâu xa của Ngài mà thôi. Chính từ cuộc sống nội tâm này mà “những mệnh lệnh và an ủi rất đặc biệt mang đến cho Ngài lý luận và sức mạnh mà chỉ những tâm hồn đơn sơ và trong sáng mới có và giúp Ngài có sức đưa ra những quyết định quan trọng, như quyết định ngay lập tức đặt tự do của mình trước sự an bài của Thiên Chúa, cũng như trao phó vào tay Thiên Chúa an bài ơn gọi nhân bản chính đáng, hạnh phúc hôn nhân của mình, để chấp nhận các điều kiện, trách nhiệm và gánh nặng của một gia đình, và từ khước tình yêu đôi lứa tự nhiên vốn là nền tảng nuôi dưỡng gia đình, để chọn một tình yêu trinh khiết không thể sánh ví. (37)
Thái độ phục tùng Thiên Chúa như thế là ý muốn mau mắn tận hiến tất cả để phục vụ Thiên Chúa, không gì khác hơn là thể hiện lòng nhiệt thành làm nên một trong những cách diễn tả của nhân đức thờ phượng. (38)
27. Đời sống hiệp thông giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu còn giúp chúng ta nhìn ngắm mầu nhiệm Nhập thể chính xác dưới khía cạnh nhân tính của Đức Kitô, là phương tiện hữu hiệu thiên tính Người dùng để thánh hoá con người: “Nhờ thiên tính, các hành động nhân loại của Đức Kitô có sức cứu độ chúng ta, phát sinh ơn sủng cho chúng ta, hoặc do công phúc hoặc do hiệu năng.” (39) Trong các hành động này, các tác giả Tin Mừng nêu bật những gì liên quan tới Mầu nhiệm Vượt qua, nhưng cũng không quên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc thể lý với Chúa Giêsu để được chữa lành (ví dụ x. Lc 1, 41), và ảnh hưởng Chúa Giêsu tác động trên Gioan Tẩy giả khi cả hai người còn trong lòng mẹ (x. Lc 1,41-44). Như chúng ta đã thấy, khi làm chứng cho Đức Kitô, các tông đồ đã không bỏ qua câu chuyện Đức Giêsu giáng sinh, việc cắt bì, dâng vào Đền thờ, trốn sang Ai Cập và cuộc sống ẩn dật ở Nadarét. Các ngài nhìn nhận “mầu nhiệm” của ơn sủng hiện diện trong từng “hành động” cứu độ này, vì chúng đều chia sẻ cùng một nguồn tình yêu: thiên tính của Đức Kitô. Nếu qua nhân tính của Đức Kitô, tình yêu này rực sáng trên mọi người, những người được thừa hưởng đầu tiên chắc chắn là những người mà thánh ý Chúa đã muốn liên kết mật thiết nhất với chính tình yêu này: Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu, và Thánh Giuse, người được xem là cha của Người. (40) Làm sao tình yêu “phụ tử” của Thánh Giuse lại không ảnh hưởng đến tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu, và ngược lại, làm sao tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu lại không ảnh hưởng đến tình yêu “phụ tử” của Thánh Giuse được? để từ đó có thể thấu hiểu được chiều sâu của mối tương quan hết sức đặc biệt ấy? Những tâm hồn nhạy cảm nhất đối với tác động tình yêu Thiên Chúa sẽ thực sự tìm thấy nơi Thánh Giuse một mẫu gương sáng chói của đời sống nội tâm.
Hơn nữa, sự giằng co rõ ràng giữa đời hoạt động và đời chiêm niệm đã được dung hoà một cách lý tưởng nơi Thánh Giuse, như chỉ có thể xảy ra nơi những người có đức ái hoàn hảo mà thôi. Theo sự phân biệt nổi tiếng của thánh Augustinô giữa lòng yêu mến chân lý (caritas veritatis) và những đòi hỏi của tình yêu (necessitas caritatis), (41) chúng ta có thể nói rằng Thánh Giuse đã cảm nghiệm được lòng yêu mến chân lý, nghĩa là tình yêu tinh tuyền chiêm ngắm Chân lý thần linh chiếu toả từ nhân tính của Đức Kitô và cũng cảm nghiệm được những đòi hỏi của tình yêu, nghĩa là tình yêu tinh tuyền phục vụ, cần thiết cho ơn gọi bảo vệ và phát triển chính nhân tính Đức Giêsu, vốn gắn kết chặt chẽ với thần tính của Người.
VI. ĐẤNG BẢO TRỢ HỘI THÁNH NGÀY NAY
28. Trong những thời kỳ khó khăn của lịch sử Giáo hội, Đức thánh cha Piô IX, vì muốn đặt Giáo hội dưới sự bảo trợ đặc biệt của thánh tổ phụ Giuse, nên đã công bố Ngài là “Đấng Bảo trợ của Giáo hội Công giáo” (42). Đức Piô IX biết rằng quyết định của mình không phải là không hợp thời, bởi vì, do phẩm giá cao vời Thiên Chúa đã ban cho người tôi tớ tín trung nhất là Thánh Giuse, “Giáo hội, – chỉ sau hiền thê của Ngài là Đức Trinh nữ – luôn trọng kính, ca tụng, cách riêng, chạy đến với Ngài trong những lúc gian nan (43).
Lý do nào dẫn tới sự tín nhiệm lớn lao ấy? Đức Lêô XIII đã đã kể ra những lý do như sau: “Những lý lẽ và những nguyên do đặc biệt đã nhìn nhận Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ của Giáo hội và khiến cho Giáo hội hy vọng rất nhiều vào sự che chở và bảo hộ của Ngài là: Thánh Giuse là phu quân của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu. […]. Xưa kia, Thánh Giuse đã là người gìn giữ, quản lý, người bảo vệ hợp pháp và tự nhiên ngôi nhà của Thiên Chúa mà thánh nhân là người đứng đầu […]. Do đó, như xưa kia, Thánh Giuse đã lo liệu tất cả những nhu cầu của gia đình Nadarét và che chở gia đình đó một cách thánh thiện, thì ngày nay, thật là hợp lý và chính đáng, từ trời cao Ngài cũng che chở và bảo vệ Giáo hội Đức Kitô như vậy” (44).
29. Giáo hội cần phải luôn kêu cầu Thánh Giuse bảo trợ, không chỉ để bảo vệ chống lại mọi nguy hiểm không ngừng nảy sinh, mà nhất là còn để nâng đỡ Giáo hội trong những nỗ lực khó khăn nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới và tái truyền giáo tại các nước và các quốc gia – như tôi đã viết trong Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu giáo dân) – nơi mà “trước đây tôn giáo và sức sống Kitô giáo hết sức phong phú”… nhưng ngày nay đang gặp thử thách nặng nề.” (45) Để đem lời rao giảng đầu tiên về Đức Kitô, hoặc để giới thiệu lại Đức Kitô cho những nơi đã đánh mất hay bỏ quên Tin Mừng, Giáo hội cần đến “quyền năng đặc biệt từ trời cao ban xuống” (cf. Lc 24, 49; Cv 1, 8): đó chắc chắn là ân huệ của Chúa Thánh Thần, nhưng cũng cần đến lời chuyển cầu và gương mẫu của các Thánh.
30. Ngoài sự bảo trợ hữu hiệu của Thánh Giuse, Giáo hội còn tin tưởng vào gương mẫu cao quý của Ngài, một mẫu gương không chỉ dành cho một bậc sống cá nhân nào mà còn được nêu lên làm gương mẫu cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu noi theo, dù ai ở hoàn cảnh nào hay giữ chức vụ nào. Như Công đồng Vaticanô II đã đề cập đến trong Hiến chế về Mạc Khải, thái độ căn bản của toàn thể Giáo hội phải là thái độ “cung kính lắng nghe lời Chúa”, (46) nghĩa là tuyệt đối sẵn sàng trung tín phục vụ ý muốn cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Kitô. Ngay lúc khởi đầu của công trình cứu độ nhân loại, chúng ta gặp được – sau Đức Maria – mẫu gương vâng lời thể hiện rõ ràng nơi Thánh Giuse, Đấng nổi bật về lòng trung thành thi hành các mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Đức thánh cha Phaolô VI đã mời gọi chúng ta khẩn cầu sự bảo trợ của Thánh Giuse “như Giáo hội thường làm trong thời gian gần đây, trước hết cho chính Giáo hội, cho việc suy tư thần học tự phát về mối liên kết giữa hành động của Thiên Chúa và hành động của con người trong nhiệm cục lớn lao của ơn Cứu độ, trong nhiệm cục ấy, hành động thứ nhất, – hành động của Thiên Chúa – đã hoàn toàn tự đầy đủ, trong khi hành động thứ hai – hành động của con người – tuy vẫn bất lực (x. Ga 15, 5), nhưng không bao giờ được miễn chước khỏi một sự cộng tác khiêm tốn, nhưng vẫn cần thiết và cao cả. Ngoài ra, Giáo hội cũng khẩn cầu Thánh Giuse làm Đấng Bảo trợ, vì Giáo hội đang khao khát sâu xa muốn làm cho cuộc sống trần thế của mình được sinh động với các nhân đức đích thực của Tin Mừng như thấy rạng ngời nơi Thánh Giuse.” (47)
31. Giáo hội biến những nhu cầu này thành kinh nguyện. Khi nhắc lại rằng, ở bình minh của thời đại mới, Thiên Chúa đã trao phó cho Thánh Giuse việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ, Giáo hội cũng xin Ngài ban cho Giáo hội được trung thành cộng tác vào công trình cứu độ, yêu mến công việc đó bằng một trái tim không chia sẻ, theo gương Thánh Giuse, Đấng đã tự hiến trọn vẹn để phục vụ Ngôi Lời Nhập Thể, Giáo hội xin Ngài cho chúng ta được sống trong sự công chính và thánh thiện, được gương mẫu và lời cầu bầu của Ngài nâng đỡ (48).
Cách nay một trăm năm, Đức Thánh cha Lêô XIII đã khuyến khích thế giới Công giáo hãy cầu nguyện để được Thánh Giuse là Bổn mạng của toàn thể Giáo hội bảo trợ. Thông điệp Quamquam Pluries đã nại tới “tình yêu phụ tử của Thánh Giuse dành cho Hài nhi Giêsu”, nại tới “Đấng Bảo trợ rất khôn ngoan của gia đình Thiên Chúa”, để trao phó di sản mà Chúa Giêsu đã mua chuộc bằng chính máu mình.” Kể từ đó – như tôi đã nhắc lại ở đầu Thông điệp này – Giáo hội đã cầu xin sự che chở của Thánh Giuse nhờ “tình thương đã hiệp nhất Ngài với Trinh Nữ Vô Nhiễm Mẹ Thiên Chúa”, và Giáo hội đã phó thác cho Thánh Giuse tất cả mọi lo âu, nhất là vì những đe doạ đang đè nặng trên gia đình nhân loại.
Ngày nay nữa, chúng ta có nhiều lý do để cầu nguyện như vậy: “Lạy Cha rất thương yêu! Chúng con xin Người cất mọi sự dối trá cùng mọi tội lỗi...; Lạy Đấng rất mạnh đang ở trên trời hay gìn giữ chúng con, xin Người dủ lòng thương mà che chở chúng con đang khi chiến trận cùng kẻ thù tối tăm... Như xưa Người đã gìn giữ Đức Chúa Giêsu cho khỏi cơn hiểm nghèo thế nào, thì rầy chúng con cũng xin Người cứu chữa lấy Hội Thánh, cho khỏi các mưu kế giặc thù, và các sự gian nan khốn khó như vậy” (49). Ngày nay chúng ta vẫn có những lý do để phó thác mỗi người cho Thánh Giuse.
32. Tôi hết lòng mong ước rằng, việc gợi lại dung mạo của Thánh Giuse lúc này cũng sẽ đổi mới trong chúng ta lòng thiết tha cầu nguyện mà vị tiền nhiệm của tôi, cách nay một thế kỷ, đã truyền phải thực hiện. Thật vậy, chắc chắn những lời cầu nguyện ấy và chính dung mạo của Thánh Giuse đã đem đến một sự canh tân hiện tình của Giáo hội trong thời đại chúng ta, khi sắp bước vào thiên niên kỷ mới của Kitô giáo.
Công đồng Vaticanô II, một lần nữa, lại cho mọi người chúng ta cảm nhận được “những kỳ công của Thiên Chúa” và “nhiệm cục cứu độ” mà Thánh Giuse là thừa tác viên đặc biệt. Vì vậy, khi phó thác cho sự bảo trợ của Đấng mà chính Thiên Chúa đã “tin tưởng trao phó những kho tàng quý báu và lớn lao nhất,” (50) thì đồng thời chúng ta cũng học được nơi Thánh Giuse cách phục vụ “nhiệm cục cứu độ.”
Ước mong Thánh Giuse trở thành một người thầy đặc biệt dạy chúng ta phục vụ sứ mạng cứu độ của Đức Kitô, một sứ mạng mà mỗi người chúng ta và mỗi thành viên của Giáo hội đều có trách nhiệm: vợ chồng, cha mẹ, những người sinh sống bằng lao động chân tay hay bất cứ công việc gì khác, những người được kêu gọi vào đời sống chiêm niệm cũng như những người được kêu gọi làm việc tông đồ.
Mang trong mình tất cả di sản của Giao ước Cũ, Đấng Công chính cũng đã được đưa vào thời ”khởi đầu” của Giao ước Mới và vĩnh cửu trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin Người chỉ cho chúng ta những nẻo đường của Giao ước cứu độ này, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ sắp tới, trong đó “sự viên mãn của thời gian” vốn thuộc về mầu nhiệm khôn tả là mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể phải được tiếp nối và phát huy không ngừng.
Nguyện xin Thánh Giuse giúp cho Giáo hội và thế giới, cũng như cho mỗi người chúng ta được phúc lành của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần!
Ban hành tại Rôma, bên cạnh đền thờ thánh Phêrô,
ngày 15 tháng 08 năm 1989,
ngày lễ kính trọng thể Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời,
năm thứ 11 triều giáo hoàng của tôi.
Gioan Phaolô II
Chuyển ngữ: Linh mục Phanxicô Lê Văn Nhạc
Hiệu đính: Nhóm Dịch thuật Hội đồng Giám mục Việt Nam
Nguồn: hdgmvietnam.com
***
VĂN PHÒNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
SẼ XUẤT BẢN ẤN PHẨM NÀY
NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 2021
_________________
Chú thích:
(29) Cf. Sách lễ Rôma, Kinh nguyện Thánh Thể I.
(30) Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870): loc. cit., p. 282.
(31) Collectio Missarum de Beata Maria Virgine, 1, “Sancta Maria de Nazareth,” Kinh Tiền tụng.
(32) Tông huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 16:106. cit., p. 98.
(33) Lêô XIII, Thông điệp Quamquam pluries (15.08.1889): loc. cit., pp. 177f.
(34) Cf. Thông điệp Laborem Exercens (14.09.1981), 9: AAS 73 (1981), pp. 599f.
(35) Ibid., 24: loc. cit., p. 638. Trong thời gian gần đây các vị Giáo hoàng luôn trình bày thánh Giuse như “mẫu gương” của các người thợ và các người lao động; Cf., chẳng hạn, Lêô XIII, Thông điệp Quamquam pluries (15.08.1889): loc. cit., p. 180; Bênêđictô XV, Tự sắc Bonum sane (25.07.1920): loc. cit., pp. 314-316; Piô XII, Diễn văn (11.03.1945), 4: AAS 37 (1945), p. 72: Diễn văn (01.05.1955): AAS 47 (1955), p. 406; Gioan XXIII, Sứ điệp truyền thanh (01.05.1960): AAS 52 (1960), p. 398.
(36) Phaolô VI, Diễn văn (19.03.1969): Insegnamenti, VII (1969), p. 1268.
(37) Ibid.: loc. cit., p. 1267.
(38) Cf. Thánh Tôma, Tổng luận thần học II-IIae, q. 82, a. 3, ad 2.
(39) Ibid., III, q. 8, a. 1, ad 1.
(40) Cf. Piô XII, Thông điệp Haurietis aquas (15.05.1956), III: AAS 48 (1956), pp. 329f.
(41) Cf. Thánh Tôma, Tổng luận thần học II-IIae, q. 182, a. 1, ad 3.
(42) Cf. Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870): loc. cit., p.283.
(43) Ibid.: loc. cit., pp. 282f.
(44) Lêô XIII, Thông điệp Quamquam pluries (15.08.1889): loc. cit., pp. 177-179.
(45) Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30.12.1988), 34: AAS 81 (1989), p. 456.
(46) Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Mạc khải Dei Verbum, 1.
(47) Phaolô VI, Diễn văn (19.03.1969): Insegnamenti, VII (1969) p. 1269.
(48) Cf. Sách lễ Rôma, Lời nguyện nhập lễ, Lời nguyện tiến lễ trong Lễ trọng kính Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức trinh nữ Maria; Lời nguyện hiệp lễ trong Lễ nhớ Thánh Giuse.
(49) Cf. Lêô XIII, “Kinh cầu cùng Thánh Giuse”, sau bản văn của Thông điệp Quamquam pluries (15.08.1889): Leonis XIII P.M. Acta, IX (1890), p. 183.
(50) Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870): loc. cit., p. 282.
Tin bài liên quan:
TÔNG HUẤN ĐẤNG GÌN GIỮ CHÚA CỨU THẾ - REDEMPTORIS CUSTOS (1)