Tông thư Salvifici Doloris (7) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4229 | Cật nhập lần cuối: 3/8/2016 8:19:22 AM | RSS

(tiếp theo)

Tông thư Salvifici Doloris (7) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo22. Viễn tượng về Nước Thiên Chúa gắn liền với niềm hy vọng vinh quang bắt nguồn từ thập giá Đức Kitô. Phục Sinh đã mặc khải cho thấy vinh quang đó - vinh quang cánh chung - mặc dù, nơi thập giá Đức Kitô, vinh quang ấy vẫn còn hoàn toàn mờ tối bởi vì vẫn còn đầy dẫy đau khổ. Những ai thông hiệp với các đau khổ của Đức Kitô cũng được mời gọi thông hiệp vào vinh quang nhờ các đau khổ của họ. Thánh Phaolô đã nhiều lần nhắc đến điều đó. Trong thư Rôma, Người viết:

“Chúng ta là… những người đồng thừa kế với Đức Kitô, vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người. Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,17-18)

Và trong thư 2 Côrintô, chúng ta đọc thấy:

“Vì một chút gian truân tạm thời, trong hiện tại, mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Quả thế, chúng ta là những người không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình” (2Cr 4,17-18).

Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô diễn tả chân lý ấy như sau:

“Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng phấn khởi” (1P 4, 13)

Tư tưởng của sự đau khổ và vinh quang hoàn toàn có tính chất Tin Mừng. Tính chất này được soi sáng nhờ quy chiếu về mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh. Trước tiên, Phục Sinh là sự tỏ hiện vinh quang, tương ứng với việc Đức Kitô được siêu tôn nhờ Thập Giá. Quả vậy, nếu dưới mắt loài người, Thập Giá tiêu biểu cho tình trạng Đức Kitô bị tước bỏ, thì đó lại là sự siêu tôn đối với Thiên Chúa. Trên Thập Giá, Đức Kitô đã đạt tới và thực hiện sứ vụ của Người đến mức sung mãn khi thi hành thánh ý Chúa Cha, đồng thời Người cũng thể hiện bản thân. Trong sự yếu đuối, Người đã tỏ bày quyền năng, và trong sự tự hạ, Người đã tỏ mình là Đấng Messia cao cả. Những lời Người thốt lên trong cơn hấp hối trên Núi Sọ và nhất là những lời cầu xin cho các lý hình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34) lại chẳng là bằng chứng về sự cao cả đó sao? Những lời ấy là tấm gương tuyệt vời cho những ai thông hiệp vào các đau khổ của Đức Kitô. Đau khổ cũng là lời mời gọi biểu lộ nét cao đẹp tinh thần của con người, tức là sự trưởng thành thiêng liêng của mình. Các Thánh tử đạo và hiển tu thuộc mọi thời đại đã chứng minh điều đó, vì các ngài trung thành với lời: “Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không làm hại được linh hồn” (Mt 10, 28). Sự Phục Sinh của Đức Kitô đã mặc khải vinh quang mai sau, đồng thời đã củng cố việc suy tôn trên Thập Giá. Vinh quang tương lai đó đã bao gồm trong chính đau khổ của Đức Kitô, như thường thấy phản ánh và sẽ còn được phản ánh nơi đau khổ của nhân loại. Đau khổ này biểu lộ sự cao cả tinh thần của con người. Ta phải thừa nhận vinh quang không những nơi các chứng nhân đức tin, mà còn nơi rất nhiều người khác, có khi họ không tin vào Đức Kitô, nhưng đang chịu đau khổ và hiến mạng sống mình cho chân lý hoặc cho chính nghĩa. Phẩm giá cao cả của con người được khẳng định một cách đặc biệt nơi những đau khổ của họ.

23. Quả thật, đau khổ bao giờ cũng là một thử thách, đôi khi quá nặng nề, mà con người phải chịu. Trong các thư Thánh Phaolô, chúng ta thường ngạc nhiên, trước nghịch lý Tin Mừng về sự yếu đuối và sức mạnh mà Thánh Phaolô đã cảm nghiệm một cách đặc biệt, và cùng với Người, tất cả những ai đang thông hiệp vào khổ đau của Đức Kitô, cũng cảm nghiệm được. Trong thư 2 Côrintô, Thánh Phaolô viết:

“Tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2Cr 12, 9)

Trong thư thứ 2 của Timôthêu, ta đọc thấy:

“Chíh vì lý do đó mà tôi phải chịu những đau khổ này, nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1, 12)

Trong thư tín hữu Philíp, Người viết:

“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể chịu được hết” (Pl 4, 13)

Những ai thông hiệp với đau khổ của Đức Kitô đều nhìn thấy mầu nhiệm vượt qua của Thập Giá và Phục Sinh, trong đó Đức Kitô khởi đầu đã hạ mình xuống, đến tận cùng sự yếu đuối và bất lực của con người: Người chịu đóng đinh vào Thập Giá. Nhưng nếu trong sự yếu đuối đó, Người được tôn vinh, sự tôn vinh được xác nhận bởi sức mạnh Phục Sinh, thì điều đó có nghĩa là những yếu đuối trong mọi đau khổ của con người đều có thể được quyền năng Thiên Chúa bao phủ. Quyền năng này được tỏ hiện nơi Thập Giá Đức Kitô. Theo quan niệm đó, chịu đau khổ có nghĩa là trở nên hết sức sẵn lòng đón nhận, đặc biệt mở rộng trước tác động của những năng lực cứu độ nơi Thiên Chúa, được thông ban cho nhân loại qua Đức Kitô. Và Thiên Chúa đã xác định rằng Người muốn hành động nơi con người, nhất là qua sự đau khổ, tức là sự yếu đuối và trơ trụi của chính họ, và chính trong sự yếu đuối và trơ trụi đó mà Người muốn bày tỏ quyền năng của Người. Như vậy ta cũng có thể hiểu được lời căn dặn của Thánh Phêrô:

“Nếu có phải chịu đau khổ vì tin vào Đức Kitô thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó” (1Pr 4, 16)

Trong thư gởi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô quảng diễn rộng hơn về đề tài “sức mạnh phát xuất từ sự yếu đuối”, đề tài về sự canh tân năng lực thiêng liêng của con người giữa các thử thách và gian truân; cuộc canh tân đó là ơn gọi đặc biệt của những ai thông phần vào đau khổ Đức Kitô:

“Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng, ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên, ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,3-5)

Đau khổ chứa đựng một lời mời gọi đặc biệt hướng về nhân đức mà con người phải thực hành, đó là trung kiên đón nhận những phiền hà và khổ đau. Khi chịu đựng như vậy, con người củng cố thêm niềm trông cậy, và nhờ đó họ mãi mãi xác tín rằng đau khổ sẽ không thắng được họ, không tước đoạt được phẩm giá của riêng con người ý thức về ý nghĩa của đời mình. Ý nghĩa cuộc đời được tỏ hiện cùng với công trình của tình yêu Thiên Chúa, tức là ơn cao trọng nhất của Chúa Thánh Linh. Càng tham dự vào lòng mến đó, con người càng tìm lại được chính mình cho dù đang đau khổ tột cùng, tìm lại được tâm hồn mà họ tưởng là đã đánh mất (xc Mc 8, 35; Lc 9, 24; Ga 12, 25).

24. Nhờ tham dự vào các đau khổ của Đức Kitô, Thánh Phaolô còn có những kinh nghiệm sâu sắc hơn nữa. Trong thư gởi tín hữu Côlôsê có một câu nói đến giai đoạn cao nhất trong hành trình thiêng liêng liên quan đến đau khổ. Thánh Phaolô viết:

“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức. Như thế là vì lợi ích cho thân thể Người, là Hội Thánh” (Cl 1, 24)

Và trong thư 1 Côrintô, Người đặt câu hỏi:

“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6, 15).

Qua mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Kitô đã khởi sự kết hợp với con người trong cộng đoàn Giáo Hội. Mầu nhiệm Giáo Hội được diễn tả qua sự kiện là từ bí tích Thánh Tẩy - làm cho ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô - cho đến hy tế Đức Kitô - diễn lại trong Thánh Thể theo cách bí tích - Giáo Hội không ngừng tự kiến tạo một cách thiêng liêng để trở nên Thân Mình Đức Kitô. Trong Thân Mình này, Đức Kitô muốn được kết hiệp với mọi người, và Người được kết hiệp cách đặc biệt với những ai đang chịu đau khổ. Những lời trong thư Côlôsê được trích dẫn trên đây xác nhận tính cách đặc biệt của sự kết hiệp đó. Quả thật, người đau khổ mà kết hiệp với Đức Kitô - như Thánh Phaolô trải qua những “gian truân” trong sự kết hiệp với Đức Kitô - thì họ không những múc lấy nơi Đức Kitô sức mạnh mà chúng ta đã nói tới trên kia, nhưng còn nhờ đau khổ của mình mà “bù đắp” những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu. Trong cái nhìn của Tin Mừng như thế, nổi bật lên sự thật về tính sáng tạo của đau khổ. Đau khổ của Đức Kitô đã phát sinh một điều thiện hảo: đó là công trình cứu độ thế giới. Thiện hảo đó tự nó dồi dào khôn cùng. Không ai có thể thêm gì vào công trình đó nữa. Nhưng đồng thời, trong mầu nhiệm Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô, có thể nói Đức Kitô đã mở rộng đau khổ cứu độ của Người đến mọi đau khổ của con người. Ở bất cứ nơi nào, thời nào, con người càng thông phần vào đau khổ của Đức Kitô, thì họ càng bù đắp, theo cách thức của mình, vào đau khổ mà nhờ đó Đức Kitô đã thực hiện công trình cứu độ trần gian.

Như thế phải chăng công trình cứu độ của Đức Kitô là chưa đầy đủ? Không phải thế. Điều đó chỉ có nghĩa là công trình cứu độ - được thực hiện nhờ năng lực của tình yêu đền bù - vẫn mãi mãi rộng mở để đón nhận mọi tình yêu được diễn tả qua đau khổ của con người. Trong chiều kích đó, chiều kích tình yêu, có thể nói ơn cứu độ đã được thực hiện trọn vẹn, nhưng vẫn còn đang được hoàn tất liên lỷ. Đức Kitô đã thực hiện trọn vẹn công trình cứu độ và cho đến tận cùng, nhưng Người không đặt dấu chấm kết thúc trong sự đau khổ cứu độ - nhờ đó thế giới được cứu thoát - ngay từ đầu. Đức Kitô đã mở ra và Người vẫn mãi mãi mở rộng để đón nhận mọi đau khổ con người. Thật vậy, đòi hỏi luôn được bổ túc hình như cũng là thành phần trong yếu tính đau khổ cứu độ của Đức Kitô.

Như thế, chính trong sự rộng mở đối với mọi đau khổ của con người mà Đức Kitô đã thực hiện công trình cứu độ qua đau khổ của Người. Quả vậy, ơn cứu độ, mặc dù đã được thực hiện một cách sung mãn nhờ đau khổ của Đức Kitô, vẫn đang diễn tiến và phát triển trong lịch sử loài người theo một cách thức khác. Ơn cứu độ đang được thực hiện và phát triển như Thân Mình Đức Kitô là Giáo Hội, và trong chiều kích đó, mọi đau khổ của con người, nhờ kết hiệp với Đức Kitô trong tình yêu, đều bổ túc cho sự đau khổ của Đức Kitô; đau khổ của con người bổ túc cho đau khổ của Đức Kitô, tương tự như Giáo Hội bổ túc công trình cứu độ của Đức Kitô vậy. Mầu nhiệm Giáo Hội, tức nhiệm thể, đang tự bổ túc nơi chính mình cho thân thể bị đóng đinh Thập Giá và Phục Sinh của Đức Kitô, xác định một khoảng trống để đau khổ của con người bổ túc đau khổ của Đức Kitô. Chỉ ở trong lãnh vực này - trong chiều kích Giáo Hội như Thân Mình Đức Kitô, không ngừng phát triển trong không gian và thời gian - ta mới có thể nói tới những gì còn thiếu nơi các gian truân thử thách Đức Kitô phải chịu. Quả thật, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh điều đó khi nhắc đến “những gì còn thiếu nơi các gian nan thử thách mà Đức Kitô phải chịu vì thân thể Người, tức là Giáo Hội”.

Giáo Hội không ngừng kín múc từ nguồn mạch vô tận, để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại, như vậy rõ ràng Giáo Hội là một chiều kích, trong đó đau khổ cứu độ của Đức Kitô luôn luôn được bổ túc nhờ đau khổ của con người. Ý nghĩa đó làm nổi bật bản chất của Giáo Hội, là vừa có tính nhân trần. Một cách nào đó, dường như đau khổ làm nổi bật những đặc tính ấy. Cũng vì thế, Giáo Hội nhìn nhận đau khổ có một giá trị đặc biệt. Đau khổ là một thiện hảo mà Giáo Hội nghiêng mình tôn kính trong niềm tin sâu xa vào ơn cứu độ. Giáo Hội cũng tôn kính trong niềm tin sâu xa nhờ đó Giáo Hội đón nhận mầu nhiệm khôn tả của thân mình Đức Kitô.

(còn tiếp)

Ban hành tại Rôma, gần đền thờ Thánh Phêrô.
Ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, 11.2.1984

Năm thứ sáu
Triều đại Giáo Hoàng của tôi
GIOAN PHAOLÔ II

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Trích "Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo", tr 41-47

Tông thư Salvifici Doloris (1) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Tông thư Salvifici Doloris (2) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Tông thư Salvifici Doloris (3) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Tông thư Salvifici Doloris (4) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Tông thư Salvifici Doloris (5) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Tông thư Salvifici Doloris (6) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo