Tuyên Ngôn về Liên lạc của Giáo hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo
Bản Tuyên Ngôn Nostra Aetate này là tài liệu ngắn nhất trong các văn kiện được Công đồng Vaticanô II công bố, nhưng lại rất quan trọng. Ngày 18.11.1964, Đức Hồng y Bea đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng đó như sau: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, một Công đồng đã long trọng trình bày các nguyên tắc liên hệ đến các tôn giáo ngoài Kitô giáo... Đây là vấn đề của hơn một tỉ người (vào thời điểm 1965) chưa biết hay không nhìn nhận Chúa Kitô và công trình cứu rỗi của Người”.
* * *
Lời mở đầu
1. Trong thời đại chúng ta, nhân loại ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn, các mối tương quan giữa các dân tộc cũng gia tăng, nên Giáo hội chú tâm xem xét mối liên hệ của mình với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Trong nhiệm vụ cổ võ sự hiệp nhất và tình thương giữa con người và nhất là giữa các dân tộc, trước tiên ở đây Giáo hội khảo sát những điểm chung cho hết mọi người và những gì thúc đẩy họ sống chung vận mệnh của mình.
Thực vậy, mọi dân tộc đều thuộc về một cộng đồng, có chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa cầu [1]. Họ lại có chung một cùng đích là Thiên Chúa, Đấng vẫn hằng trải rộng sự quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu và ý định cứu độ cho hết mọi người [2], cho đến khi những người được tuyển chọn qui tụ trong Thành Thánh, tỏa rạng ánh vinh quang Thiên Chúa, nơi muôn dân tiến bước theo ánh sáng của Ngài [3].
Con người mong đợi các tôn giáo giải đáp về những bí nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những bí nhiệm xưa nay vẫn làm tâm hồn họ phải xao xuyến sâu xa: Con người là gì ? Đời người có ý nghĩa và mục đích gì ? Sự thiện và tội lỗi là chi ? Đâu là nguyên nhân và mục đích của sự đau khổ ? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực ? Cái chết, sự phán xét và thuởng phạt sau khi chết là gì ? Sau cùng, huyền nhiệm tối hậu và khôn tả bao trùm cuộc sống chúng ta là chi, chúng ta xuất phát từ đâu và chúng ta hướng về đâu ?
Các tôn giáo ngoài Kitô giáo
2. Từ xưa đến nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tàng ẩn trong biến chuyển của các sự vật và nơi những biến cố của đời người, đôi khi còn thấy cả sự nhìn nhận một vị Thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan với tiến bộ văn hóa, thì cố gắng giải đáp những vấn nạn trên, bằng những ý niệm cao sâu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế.
Như trong Ấn giáo, con người tìm hiểu huyền nhiệm thần linhvà diễn tả những huyền nhiệm ấy bằng những thần thoại phong phú bất tận cũng như bằng các nỗ lực suy tư triết lý sâu sắc. Họ tìm cách giải thoát khỏi những nỗi lo âu của kiếp người bằng những lối sống khổ hạnh, hoặc bằng tịnh niệm thâm sâu, hay bằng việc tìm nương ẩn nơi Thượng Đế với lòng kính yêu và tin tưởng.
Với nhiều tông phái khác nhau, Phật giáo nhìn nhận sự thiếu sót tận căn của cuộc đời vô thường này và chỉ dạy cho những con người thành tâm và tin tưởng, con đường đạt đến sự giải thoát trọn vẹn hay giác ngộ tối cao, nhờ những cố gắng của bản thân hoặc sự trợ lực của ơn trên. Cũng vậy, với nhiều phương thế khác nhau, các tôn giáo khác trên thế giới đều cố gắng giúp cho tâm hồn con người thoát khỏi những âu lo, bằng cách đề nghị những đường lối, nghĩa là những giáo thuyết, luật sống cùng nghi lễ phụng tự.
Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ấy. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, dù có nhiều điểm khác với chủ trương và đề nghị của Giáo hội, nhưng vẫn thường mang lại một tia sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi tất cả mọi người. Tuy nhiên, Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải không ngừng rao giảng Chúa Kitô, Đấng là “con đường, sự thật và sự sống” (Ga 14, 6) trong Người, con người tìm được đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình [4].
Vì thế, Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, gìn giữ và làm tăng triển những giá trị tâm linh, luân lý cũng như các giá trị xã hội-văn hóa của những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ ấy mà vẫn làm chứng cho niềm tin và đời sống Kitô giáo.
Hồi giáo
3. Giáo hội cũng tôn trọng các tín đồ Hồi giáo, là những người thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và hằng hữu, xót thương và toàn năng, Đấng Tạo Thành trời đất [5], Đấng đã ngỏ lời với con người. Họ chuyên chăm tuân phục cả những phán quyết bí nhiệm của Thiên Chúa với tất cả tâm hồn, như Abraham đã tuân phục, người mà niềm tin Hồi giáo sẵn lòng noi theo. Dù không nhìn nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng họ tôn kính Người như vị Tiên tri, kính trọng Mẹ đồng trinh của Người là Đức Maria và đôi khi cũng sốt sắng cầu khẩn Mẹ. Hơn nữa, họ cũng trông đợi ngày phán xét, ngày Thiên Chúa thưởng phạt mọi người khi sống lại. Chính vì thế, họ tôn trọng đời sống luân lý và thờ phượng Thiên Chúa, nhất là bằng việc cầu nguyện, bố thí và chay tịnh.
Dù trong dòng lịch sử, giữa những người Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo có không ít mối bất hòa và hiềm thù nhau, Công Đồng khuyên mọi người nên quên đi quá khứ và cố gắng chân thành tìm hiểu lẫn nhau, cũng như cùng nhau bảo vệ và cổ võ công bình xã hội, các giá trị luân lý, hòa bình và tự do cho tất cả mọi người.
Do Thái giáo
4. Khi tìm hiểu mầu nhiệm Giáo hội, Công đồng nhắc lại mối dây liên kết thiêng liêng giữa dân của Tân Ước và dòng dõi Abraham.
Thực vậy, Giáo hội Chúa Kitô nhìn nhận rằng khởi điểm của đức tin và việc tuyển chọn Giáo hội được tìm thấy nơi các Tổ phụ, Môisen và các Tiên tri, theo mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Giáo hội tuyên xưng rằng mọi Kitô hữu, con cái Abraham theo đức tin [6], đều được hàm chứa trong ơn gọi của vị Tổ phụ này và sự cứu độ của Giáo hội đã được tiên báo cách huyền nhiệm trong cuộc xuất hành của dân được tuyển chọn ra khỏi miền đất nô lệ. Vì thế, Giáo hội không thể quên rằng mình đã nhận được mặc khải Cựu ước nhờ dân này, dân mà Chúa đoái thương ký kết Giao ước cũ do lòng thương xót khôn tả của Ngài; và Giáo hội được nuôi dưỡng bằng gốc rễ Ôliu tươi tốt, trên đó những ngành Ôliu hoang dã là Chư Dân đã được tháp nhập vào [7]. Vì Giáo hội tin rằng Chúa Kitô, Bình An của chúng ta, đã hòa giải dân Do Thái và Chư Dân bằng thập giá và làm cho cả hai nên một nơi chính bản thân Người [8].
Giáo