Đức Giêsu Kitô - Đường kiện toàn phẩm giá con người (1)
Bài viết ‘Đức Giêsu Kitô - Đường Kiện Toàn Phẩm Giá Con Người’ được trình bày dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo với các đề mục như sau: (1) Khái Niệm Phẩm Giá Con Người, (2) Phẩm Giá Con Người theo Kinh Thánh, (3) Suy Tư Thần Học, (4) Đồng Hành Với Đức Giêsu.
Dẫn Nhập
Công Đồng Vatican II (1962-1965) khẳng định: “Con người càng ngày càng ý thức hơn về phẩm giá cao trọng vốn có của mình, bởi vì con người vượt trên mọi loài và vì những quyền lợi cũng như bổn phận của con người là phổ quát và bất khả xâm phạm” (GS 26). Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng sự hiện diện của mỗi người trong gia đình nhân loại, trong không gian, thời gian luôn là sự hiện diện mới mẻ, không trùng lặp. Quả thực, Thiên Chúa ban cho con người phẩm giá nội tại (intrinsic dignity) cao quý và những thuộc tính mà không thụ tạo nào có được. Chính phẩm giá làm cho con người phân biệt với muôn vật muôn loài. Phẩm giá là nền tảng của tự do, quyền và nghĩa vụ của con người. Đồng thời, phẩm giá vừa là nền tảng, vừa là mục đích cho mọi hình thức phát triển trong gia đình nhân loại. Điều này có nghĩa rằng các hình thức phát triển luôn vì con người, với con người và cho con người. Do đó, mọi người được mời gọi tôn trọng, bảo vệ và góp phần làm cho phẩm giá con người ngày càng tiến triển theo thánh ý Thiên Chúa.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng con người là hữu thể có khả năng tiếp nhận, sống và diễn tả tình yêu của Thiên Chúa trong đời mình. Thế nhưng, con người đã vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân huấn lệnh của Thiên Chúa và hậu quả là phẩm giá con người bị tổn thương nghiêm trọng. Vì con người lạm dụng sự tự do của mình, tội lỗi xâm nhập trần gian và tội lỗi đưa đến sự chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người, khi thời gian tới thời viên mãn, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã đến trần gian phục hồi và kiện toàn phẩm giá con người để con người trở thành con cái Thiên Chúa. Theo Công Đồng Vatican II, mầu nhiệm con người chỉ được sáng tỏ nhờ mầu nhiệm Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người (GS 22).
Bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô - Đường Kiện Toàn Phẩm Giá Con Người’ được trình bày dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo với các đề mục như sau: (1) Khái Niệm Phẩm Giá Con Người, (2) Phẩm Giá Con Người theo Kinh Thánh, (3) Suy Tư Thần Học, (4) Đồng Hành Với Đức Giê-su.
I. KHÁI NIỆM PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Phẩm giá con người liên quan đến lịch sử, truyền thống, đạo đức, nhân văn, chính trị, tâm lý, triết học, tôn giáo và nhiều lĩnh vực khác. Trong bối cảnh hôm nay, khái niệm phẩm giá được sử dụng rất đa dạng, chẳng hạn như phẩm giá trẻ em, phẩm giá phụ nữ, phẩm giá người già, phẩm giá người tàn tật, phẩm giá người tự do, phẩm giá công việc, phẩm giá công nhân, phẩm giá hôn nhân gia đình, phẩm giá các dân tộc. Đối với các Ki-tô hữu, khái niệm phẩm giá cũng được sử dụng khá phổ biến, chẳng hạn như phẩm giá Đức Giê-su, phẩm giá Đức Ma-ri-a, phẩm giá con cái Thiên Chúa, phẩm giá đức tin, phẩm giá các bí tích, phẩm giá người sống đời thánh hiến, phẩm giá bậc tu sĩ, phẩm giá nữ tu, phẩm giá giáo dân. Ngoài ra, khái niệm phẩm giá còn được sử dụng theo nghĩa bao quát hơn, chẳng hạn như rời bỏ chức vụ với phẩm giá, đời sống có phẩm giá, cái chết với phẩm giá.
Người ta thường nói về phẩm giá con người, tuy nhiên, việc trả lời cho câu hỏi ‘phẩm giá con người là gì?’ luôn dẫn đến nhiều tranh luận không hồi kết. Quả thực, không có định nghĩa nào về phẩm giá con người được mọi người trong gia đình nhân loại đồng lòng chấp nhận. Có người còn tỏ ra khinh bỉ khái niệm phẩm giá con người; có người cho rằng không nên sử dụng khái niệm phẩm giá con người trong bất cứ hoàn cảnh nào. Có người cho rằng khái niệm phẩm giá con người chỉ nên được sử dụng trong một số lĩnh vực nhất định. Đặc biệt, có người cho rằng không nên bàn về phẩm giá con người trong lĩnh vực đạo đức sinh học (bioethics) bởi vì công nhận phẩm giá con người là đồng nghĩa với việc kìm hãm các thành tựu về sinh học nhằm phát triển con người. Cũng có người cho rằng phẩm giá con người nên được áp dụng cho từng hoàn cảnh nhất định.
Các triết gia Hy-lạp cổ đại, chẳng hạn như Socrates, Plato, Aristotle không dùng khái niệm phẩm giá con người. Tuy nhiên, họ quan tâm những thuộc tính nơi con người mà các sinh vật khác không thể có được, chẳng hạn như trí khôn, tư tưởng, tự do, đức hạnh, can đảm, tiết độ. Đặc biệt, họ mời gọi mọi người quan tâm căn tính, đời sống và sứ mệnh con người trên bình diện cá nhân cũng như các hình thức tập thể giữa muôn vật muôn loài. Socrates không ngừng kêu gọi mọi người biết tôn trọng sự thật, Plato kêu gọi mọi người hướng thượng, Aristotle kêu gọi mọi người sống đời đức hạnh và đề cao tình bạn đặt nền tảng trên đức hạnh.
Theo các học giả nghiên cứu về chủ đề ‘phẩm giá’, thuật ngữ này bắt nguồn từ Panaetius xứ Rhodes, triết gia Hy-lạp, thuộc trường phái khắc kỷ (185-110 trước Công Nguyên). Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của phẩm giá con người trong tương quan với đức hạnh và luân lý. Đặc biệt, Marcus Tullius Cicero (106-43 BC) định nghĩa: “Phẩm giá của một người là nguồn/uy tín trung thực và xứng đáng có được sự kính trọng, danh dự và sự quan tâm” [Dignitas est alicuius honesta et cultu et honore et verecundia digna auctoritas] (Cicero, De Inventione II, 166). Hơn ai hết, Cicero đã dùng thuật ngữ ‘dignitas’ trong các tác phẩm của ông, chẳng hạn như trong De Officiis (On Duties, năm 44 trước Công Nguyên), De Oratore (On the Orator, năm 55 trước Công Nguyên) hay Pro Roscio Amerino (In Defense of Roscius of America, năm 80 trước Công Nguyên).
Immanuel Kant (1724-1804) được xem là người đặt nền móng cho sự quan tâm của xã hội hiện đại về phẩm giá con người. Ông cho rằng phẩm giá con người là phổ quát vì là giá trị nội tại nơi mọi người trong gia đình nhân loại. Hai đặc tính của phẩm giá con người là lý trí (rationality) và tự chủ (autonomy). Đồng thời, ông cũng cho rằng phẩm giá con người là đặc hữu bởi vì muôn vật muôn loài không có phẩm giá tương tự như con người. Đối với Immanuel Kant, một trong những biểu hiện điển hình của con người có phẩm giá là hành động của con người có tính luân lý (actus humanus - hành vi nhân linh, ý thức về điều tốt, việc xấu). Do đó, theo Immanuel Kant, mọi người phải tôn trọng phẩm giá người khác và không sử dụng người khác như là phương tiện để đạt mục đích của mình. Đặc biệt, đối với Immanuel Kant phẩm giá liên quan mật thiết với quyền tự chủ hợp lý (rational autonomy) nơi mọi người.
Điều khoản đầu tiên của Tuyên Ngôn Cách Mạng Pháp (1789) là: “Mọi người được sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Khái niệm phẩm giá không xuất hiện trong Tuyên Ngôn này. Trong khi đó, tự do và quyền lợi được xem là biểu hiện của phẩm giá mang tính phổ quát, gắn liền với mọi người từ khi hiện diện trên trần gian. Trong Lời Tựa của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Universal Declaration of Human Rights, 1948) có đoạn: “Các dân tộc của Liên Hiệp Quốc đã tái khẳng định trong Hiến chương niềm tin của họ vào các quyền cơ bản của con người, vào phẩm giá và giá trị của con người và vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và đã quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong sự tự do hơn” (Preamble, Universal Declaration of Human Rights 1). Phẩm giá con người được đề cập ngay trong điều khoản đầu tiên của Tuyên Ngôn này như sau: “Mọi người được sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Họ được phú bẩm lý trí và lương tâm và phải hành động với nhau trong tinh thần huynh đệ” (Universal Declaration of Human Rights 1). Vào năm 2005, tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công bố Tuyên Ngôn về Đạo Đức Sinh Học và Nhân Quyền, trong đó có đoạn: “Phẩm giá con người, quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được tôn trọng đầy đủ” (Universal Declaration on Bioethics and Human Rights 3). Chúng ta không tìm được định nghĩa ‘phẩm giá con người’ trong hai Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc nhưng việc sử dụng khái niệm này mặc nhiên cho thấy sự đồng lòng của các quốc gia trong việc nhìn nhận tầm quan trọng của phẩm giá con người, đồng thời, khơi dậy nơi tâm hồn mọi người sự cần thiết phải ý thức về phẩm giá (thực tại chung nhất) vốn có nơi mỗi người không phân biệt chính kiến, sắc tộc, màu da, tôn giáo cũng như các hình thức phân biệt khác giữa các hình thái xã hội.
Đối với Giáo Hội Công Giáo, câu đầu tiên trong Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Digitatis Humanae của Công Đồng Vatican II là: “Phẩm giá con người càng ngày càng được con người thời đại chúng ta ý thức mãnh liệt hơn, và xã hội luôn gia tăng số người đòi hỏi cho mình trong khi hành động được hưởng dụng quyền tự quyết và tự do nhận trách nhiệm, không bị một áp lực nào chi phối nhưng do ý thức về bổn phận dẫn dắt” (Digitatis Humanae 1). Điều đáng chúng ta quan tâm là Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo lại bắt đầu bằng khái niệm phẩm giá con người (digitatis humanae). Tuyên Ngôn này cũng khẳng định rõ ràng: “Tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên phẩm giá con người, một phẩm giá đúng như lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được” (Dignitatis Humanae 2). Điều này phù hợp với nhãn quan Ki-tô Giáo rằng con người được tự do tin tưởng, sống và thực thi những gì gắn liền với bản thân trong không gian và thời gian. Đồng thời, con người cũng được tự do trong việc gắn bó hoặc không gắn bó với hình thức tôn giáo hay tín ngưỡng nào đó. Tuy nhiên, tự do chỉ có thể đúng đắn và phù hợp khi con người vâng theo thánh ý Thiên Chúa.
Đối với mặc khải Ki-tô Giáo, phẩm giá con người đến từ Thiên Chúa chứ không nảy sinh từ thế giới thụ tạo. Nói cách khác, phẩm giá con người là thượng xuất (from above) chứ không hạ khởi (from below), nghĩa là do Thiên Chúa ban tặng chứ không do con người hay vạn vật mà có. Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Phẩm giá của con người bắt nguồn trong việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí tự do, con người được qui hướng về Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác” (TYGLGHCG 358). Do đó, chúng ta có thể nói rằng khái niệm ‘phẩm giá con người’ (human dignity) và ‘hình ảnh Thiên Chúa’ (image of God) nơi con người có thể thay chỗ cho nhau. Con người có phẩm giá cao quý vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
Để có thể giảm thiểu những mơ hồ trong việc giải thích và sử dụng khái niệm phẩm giá con người, trong Tuyên Ngôn Dignitas Infinita về phẩm giá con người (2024), Bộ Giáo Lý Đức Tin mời gọi mọi người nhận thức về khả năng phân biệt bốn khía cạnh hay bốn chiều kích (a fourfold distinction) của khái niệm này là: (1) Phẩm giá bản thể (ontological dignity), (2) phẩm giá đạo đức (moral dignity), (3) phẩm giá xã hội (social dignity) và (4) phẩm giá hiện sinh (existential dignity). Trong đó, phẩm giá bản thể bền vững, không thể xóa nhòa, vượt trên mọi hoàn cảnh của đời sống con người; phẩm giá đạo đức liên quan đến việc con người thực thi quyền tự do của bản thân dựa trên lương tâm trong việc nhận diện, phân định và thực thi các nguyên tắc luân lý; phẩm giá xã hội liên quan đến điều kiện và chất lượng sống của con người và phẩm giá hiện sinh liên quan đến những điều đang được bàn luận trong bối cảnh thế giới hiện tại về việc sống ‘xứng đáng’ hay ‘không xứng đáng’ với phẩm giá’ (Dignitas Infinita 7-8). Theo Bộ Giáo Lý Đức Tin: “Những sự phân biệt này nhắc nhở chúng ta về giá trị bất khả xâm phạm của phẩm giá bản thể gắn liền với hữu thể con người trong mọi hoàn cảnh” (Dignitas Infinita 8). Điều này cũng có nghĩa rằng ba chiều kích còn lại của phẩm giá con người lệ thuộc vào sự tự do và cộng tác của cá nhân cũng như cách thức ứng xử của các hình thức tập thể trong gia đình nhân loại.
Từ phẩm giá nơi các ngôn ngữ phổ biến hôm nay như tiếng Anh ‘dignity’, tiếng Pháp ‘dignité’, tiếng Tây Ban Nha ‘dignidad’, phát xuất từ tiếng La-tinh ‘dignitas’ với nghĩa là xứng đáng, vinh dự, quý trọng. Từ này thiên về chất lượng hay phẩm tính (quality) hơn là số lượng hay khối lượng (quantity). Từ này không xuất hiện trong Kinh Thánh hay trong việc khai triển nội dung đức tin Ki-tô Giáo thuở ban đầu. Thực ra, nhiều khái niệm quan trọng trong nội dung đức tin Ki-tô Giáo cũng xuất hiện khá muộn. Chẳng hạn, trong những thế kỷ đầu của Ki-tô Giáo, các Giáo Phụ đã sử dụng các hạn từ của Hy-lạp như yếu tính (οὐσία/ ousia), bản tính (φύσις/ physis) hay ngôi vị (ὑπόστασις/ hypostasis) để quảng diễn giáo lý Chúa Ba Ngôi trong đời sống nội tại cũng như trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hóa con người cũng như biến đổi muôn vật muôn loài. Qua dòng lịch sử, nhiều khái niệm khác cũng được ‘cập nhật’ để diễn tả nội dung đức tin Ki-tô Giáo cách phù hợp hơn với tâm thức của con người trong thời đại mới, chẳng hạn, từ hội nhập văn hóa (inculturation) được sử dụng chính thức trong Giáo Huấn của Giáo Hội với Tông Huấn về việc dạy Giáo Lý năm 1979 (Catechesi Tradendae 53) của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II.
Cựu Ước có ba từ gần nghĩa với từ ‘phẩm giá’ trong ngôn ngữ hiện đại là: (1) כָּבוֹד (kavod/ vinh quang, xứng đáng, chẳng hạn như Xh 16,7.10; Xh 24,16-17; Lv 9,6.23), (2) יָקָר (yaqar/ quý giá, cao trọng, chẳng hạn như 1 Sm 3,1; Tv 36,8; Tv 139,17) và (3) תִּפְאֶרֶת (tiferet/ vẻ đẹp, vẻ vang, chẳng hạn như Sbn 29,11; Is 60,19; Tv 96,6). Tân Ước, có một số từ tương đương với từ ‘phẩm giá’ là: (1) τιμή (timē/ vinh quang, vinh dự, danh dự, coi trọng, có giá trị, chẳng hạn như Rm 2,10; Rm 12,10; Cl 2,23; 1 Tx 4,4; 1 Tm 1,17; 1 Pr 2,7); danh từ này phát xuất từ động từ τιμάω (timao) với nghĩa là thể hiện sự tôn vinh, kính trọng hay đánh giá cao về thực thể nào đó, chẳng hạn: “Vinh dự cho anh em [ἡ τιμὴ τοῖς] là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường” (1 Pr 2,7), (2) δόξα (doxa/ vinh quang, sự rạng rỡ), chẳng hạn như Rm 8,30: “…những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang [doxa]”, (3) ἀξία (axia/ giá trị, xứng đáng hoặc đáng tôn trọng, chẳng hạn như Ep 4,1: “Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng [axia] với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em”, (4) σεμνότης (semnotēs/ đàng hoàng hoặc nghiêm chỉnh, chẳng hạn như 1 Tm 2,2: “[cầu nguyện] cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh [semnotēs]”. Chúng ta có thể khẳng định rằng mặc khải của Thiên Chúa được đúc kết và diễn tả trong Kinh Thánh là vì phẩm giá con người và cho phẩm giá con người.
II. PHẨM GIÁ CON NGƯỜI THEO KINH THÁNH
2.1 Phẩm giá con người trong Cựu ước
Sách Sáng Thế có hai trình thuật về việc Thiên Chúa sáng tạo (St 1,1-2,4 và St 2,5-25). Chương I của sách Sáng Thế cho chúng ta biết con người là đỉnh cao của chương trình Thiên Chúa sáng tạo bởi vì con người được dựng nên ‘theo hình ảnh Thiên Chúa’ (imago Dei) và ‘giống như Thiên Chúa’: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,26-27). Ở đây, thuật ngữ ‘hình ảnh’ diễn tả sự thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, còn thuật ngữ ‘giống như’ diễn tả sự thiện luân lý (2 Pr 1,4; DV 2; GLGHCG 356-361). Đặc biệt, những gì Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Chương II của sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo bởi vì muôn vật muôn loài được dựng nên cho con người. Việc sáng tạo con người được diễn tả như sau: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Con người mang ‘hơi thở của Thiên Chúa’, đồng thời, con người được Thiên Chúa ban phép đặt tên cho vạn vật (St 2,19). Là ‘hình ảnh của Thiên Chúa’ và ‘mang hơi thở của Thiên Chúa’, con người được mời gọi sống trong tình hiệp thông với Người.
Chương III của sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa và tội lỗi đã xâm nhập trần gian, đưa đến sự chết. Tác giả sách Khôn Ngoan diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,23-24). Sách Khôn Ngoan cho thấy con người sau khi phạm tội vẫn còn là ‘hình ảnh’ của Thiên Chúa, nhưng không còn ‘giống như’ Thiên Chúa nữa. Vì thế, việc cứu độ và thánh hóa mà Đức Giê-su thực hiện trong Chúa Thánh Thần nhằm giúp cho con người được phục hồi việc ‘giống như’ Thiên Chúa trước đây, đồng thời, làm cho con người được thần hóa (Irenaeus, Against Heresies, Book V, Chapter 6,1; 8,1; 16,2). Trình thuật sách Sáng Thế cho chúng ta biết con rắn hứa với A-đam và E-và rằng khi ăn cây trái cấm họ sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác. Khi ăn xong trái cấm, họ thấy mình trần truồng và họ đã kết lá làm khố che thân. Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu thương họ: “Đức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Việc Thiên Chúa làm cho con người và vợ những chiếc áo da để che thân thể trần truồng diễn tả sự chăm sóc tận tình của Thiên Chúa. Người không từ bỏ con người trong tình trạng phẩm giá bị tổn thương. ‘Áo da’ là hình ảnh diễn tả ân sủng của Thiên Chúa bảo vệ phẩm giá con người cho dù con người vô ơn, bất tuân, bất xứng, tội lỗi.
Sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con người ngay cả khi Người xử phạt, chẳng hạn, khi Ca-in giết em mình là A-ben, Đức Chúa phán: “Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất” (St 4,12). Ca-in nói với Đức Chúa: “Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4,14). Đức Chúa trả lời: “Không đâu!”, đồng thời, “Đức Chúa ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Ông Ca-in đi xa khuất mặt Đức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen” (St 4,15-16). Ca-in được bảo vệ khỏi những ai muốn trả thù vì Ca-in đã gây nên cái chết của A-ben, em mình. Quả thực, ‘đừng trả thù’, ‘đừng lấy ác báo ác’, ‘đừng làm cho sự dữ lan tràn’, ‘đừng sống trong cảnh tội chồng tội’ là những điệp khúc phổ biến trong Cựu Ước, chẳng hạn như: “Ngươi không được trả thù… Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18) hay: “Bạn đừng nói: Tôi sẽ báo thù!” (Cn 20,22). Như thế, mọi người được mời gọi đối xử với anh chị em mình theo cách thức Thiên Chúa chỉ dạy chứ không phải theo bất cứ hình thức nào khác.
Các trình thuật sách Xuất Hành cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã kêu gọi Mô-sê và trao phó cho ông sứ mệnh khôi phục phẩm giá Dân Người, bằng cách giải thoát họ khỏi ách nô lệ hà khắc của Ai-cập. Thiên Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3,7-8). Theo huấn lệnh của Thiên Chúa, chính Mô-sê mời gọi dân Do-thái không chỉ tôn trọng phẩm giá anh chị em mình mà còn tôn trọng phẩm giá của những người ngoại kiều, những người yếu đuối hay vô danh tiểu tốt ở bất cứ nơi đâu, chẳng hạn: “Anh (em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người góa bụa làm đồ cầm” (Đnl 24,17). Mô-sê cho họ biết rằng chính họ đã từng chịu cảnh nô lệ, áp bức ở Ai-cập. Do đó, họ không được đối xử với bất cứ ai theo cách thức người Ai-cập đối xử với họ (Đnl 24,17-22).
Lòng hiếu thảo của con người đối với Thiên Chúa phải đi đôi với việc giúp con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình: “Lấy của người nghèo mà dâng làm hy lễ thì cũng như sát tế đứa con trước mặt cha nó. Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34,20-22). Ông A-xáp khuyên dạy mọi người: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82,3-4). Trong sách ngôn sứ I-sai-a, nhân danh Thiên Chúa, vị ngôn sứ nói: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo khó trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10,1-2). Tác giả sách Châm Ngôn viết: “Kẻ giàu người nghèo gặp nhau ở điểm này: Cả hai đều được Đức Chúa tạo dựng” (Cn 22,2). Như vậy, ‘được Thiên Chúa tạo dựng’ trở nên điểm quy chiếu cho mọi người trước tất cả mọi sự phân biệt khác, chẳng hạn như sang hèn, giàu nghèo, tốt xấu, khỏe yếu.
Suy niệm về ‘chỗ đứng’ của con người trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh 8 thốt lên: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7). Là hình ảnh của Thiên Chúa, con người cao cả hơn vạn vật và ‘chỉ kém thiên thần một chút’. Con người được tham dự sự sống Thiên Chúa, được trò chuyện với Người và được Người dẫn dắt như người cha đối với con cái thơ bé của mình. Tác giả Thánh Vịnh không dùng cụm từ ‘hình ảnh của Thiên Chúa’ nhưng không nghi ngờ gì nữa, tác giả ý thức về sự cao cả của con người so với muôn vật muôn loài. Thánh Vịnh 8 vang vọng âm hưởng việc Thiên Chúa sáng tạo con người ‘theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa’ ở Chương I sách Sáng Thế cũng như con người được Thiên Chúa ‘định dạng và thông ban hơi thở’ ở Chương II sách Sáng Thế. Tương tự như thế, ông Gióp cũng ngạc nhiên và đặt câu hỏi tại sao Thiên Chúa lại quan tâm, săn sóc con người thật tận tình: “Con người là gì để Ngài phải coi trọng, để Ngài phải lưu tâm, để sáng nào Ngài cũng phải thăm viếng, để mỗi lúc Ngài lại phải xét soi?” (G 7,17-18). Con người có phẩm giá cao quý đến nỗi Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã mang lấy để kiện toàn và cho phép con người được thông dự sự sống của Thiên Chúa.
2.2 Phẩm giá con người trong Tân ước
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết rằng lời đầu tiên của Đức Giê-su trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng là: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa (Βασιλεία τοῦ Θεοῦ: Nước Thiên Chúa, Vương Quốc Thiên Chúa hay Nước Trời) đã hiện diện giữa thế giới thụ tạo, giữa gia đình nhân loại. Nội dung chính yếu của sứ mệnh Đức Giê-su được Người nhấn mạnh cách cụ thể sau khi Người chịu Phép Rửa và chịu ma quỷ cám dỗ bốn mươi ngày, Người trở về Ga-li-lê và giảng dạy trong các hội đường của Người Do-thái. Khi đến Na-da-rét, quê hương của Người, ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường. Người ta trao cho Đức Giê-su sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19; Is 61,1-2). Những lời này cho chúng ta biết sứ mệnh của Đức Giê-su là sứ mệnh biến đổi, phục hồi và kiện toàn phẩm giá con người.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết sau khi Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên, Người bắt đầu chữa bệnh ở miền Ga-li-lê: “Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: Những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ” (Mt 4,24). Khi trình bày về việc đừng làm cho người khác sa ngã cũng như tôn trọng những người yếu thế, Đức Giê-su nói: “Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11); khi những người Pha-ri-sêu bàn tán về việc Đức Giê-su dùng bữa với người tội lỗi, Đức Giê-su nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17); khi trình bày dụ ngôn con chiên lạc, Đức Giê-su nói: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7); Khi diễn giải về vai trò của vị Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Quả thực, âm hưởng của việc Đức Giê-su kiện toàn phẩm giá con người luôn vang vọng trong các trình thuật của các tác giả Tin Mừng.
Đức Giê-su quan tâm phẩm giá của con người, chẳng hạn như Người đến với những người bị xã hội Do-thái ruồng bỏ (Mt 9,10-13); Người quan tâm phẩm giá của những người bệnh tật (Mt 4,23-25), những người phong hủi (Lc 17,11-19), những người bị quỷ ám (Lc 4,33-35). Người không chỉ đến với dân Do-thái mà còn đến với dân ngoại, chẳng hạn như Người đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp và thay đổi cuộc đời của bà cũng như dân Sa-ma-ri tại đó (Ga 4,7-26). Người chữa đầy tớ của một đại đội trưởng (Lc 7,1-10); Người xua đuổi thần ô uế ra khỏi một người ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20). Đặc biệt, Đức Giê-su hồi sinh kẻ chết, chẳng hạn như Người hồi sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5,35-43); hồi sinh con trai bà góa thành Na-in (Lc 7,11-17), hồi sinh La-da-rô đã chết bốn ngày (Ga 11,1-44).
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết rằng khi Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um, Người hỏi các ông về những tranh luận của họ trên đường. Sau đó, Người cho các ông biết rằng ai muốn làm lớn thì phải làm người rốt hết để phục vụ mọi người (Mc 9,33-35). Đặc biệt, Người đem một em nhỏ tới và nói với các ông: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,37). Trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn” (Mt 18,5-6). Đức Giê-su dạy mọi người hai bài học về phẩm giá qua hai trích dẫn ở trên: (1) Phẩm giá căn bản của con người không lệ thuộc địa vị và (2) phẩm giá căn bản của con người không lệ thuộc tuổi tác. Bài học thứ hai xem ra quan trọng hơn và ít người để ý đến: Em nhỏ đại diện cho những người yếu đuối, thấp cổ bé miệng, dễ bị tổn thương, dễ bị lạm dụng, dễ bị loại trừ; em nhỏ thiếu kiến thức, không có quyền hành, không được lên tiếng nơi công cộng, dễ bị lãng quên. Em nhỏ là những kẻ ốm đau, những người tha hương, những người ít học, những người bị áp bức, những người bị phân biệt cách bất công dựa trên những tiêu chuẩn do con người tự mình thiết đặt. Đặc biệt, em nhỏ không tự ngắm mình nhưng đắm nhìn sự trợ giúp, nâng đỡ nơi người khác. Đặc biệt, em nhỏ biết cậy trông, phó thác nơi cha mẹ. Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy xây dựng tương quan với Thiên Chúa theo tâm thức và khả năng em nhỏ. Quả thực, con người thường lầm lẫn giữa chức vụ (function) và phẩm giá (dignity), đồng thời, nhiều khi xem chức vụ quan trọng hơn phẩm giá.
Dụ ngôn ‘người cha nhân hậu’ giúp chúng ta hiểu rằng người con thứ đánh mất phẩm giá khi lìa xa cha mình. Sau khi phung phí hết tài sản vào những chuyện đồi bại, anh ta lâm cảnh túng thiếu và phải đi ở đợ cho người dân ngoại. Người này sai anh ta đi chăn heo. Thánh Lu-ca trình thuật: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” (Lc 15,16). Anh ta tự vấn lương tâm: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15,17). Những người làm công sống xứng đáng với phẩm giá của mình, trong khi người con thứ của chủ nhà lại mất hết phẩm giá. Anh ta nhận ra điều đó và trở về nhà cha mình. Cách thức người cha phục hồi phẩm giá người con thứ thật đáng ngưỡng mộ bởi vì ông không dọa nạt, ngăm đe, trách mắng. Điều ông diễn tả là tình yêu, tình yêu vô điều kiện đối với con mình: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” (Lc 15,22-23). Trong khi người con thứ tự thân rời bỏ cha mình và phẩm giá bị tổn thương thì người cha không hề lãnh đạm. Người cha hằng trông mong người con trở về để ôm người con vào lòng và khôi phục phẩm giá trọn vẹn.
Các trình thuật Tin Mừng cho chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su đến trần gian không chỉ khôi phục và biến đổi phẩm giá con người là hình ảnh của Thiên Chúa đã bị tổn thương mà còn cho phép con người trở thành con cái Thiên Chúa. Lời Tựa Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết: “Những ai đón nhận [Đức Giê-su], tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17,24). Sau khi phục sinh, Đức Giê-su nói với Ma-ri-a Mác-đa-la: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: `Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Như vậy, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người, mở ra cho mọi người trong gia đình nhân loại kỷ nguyên mới là hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cũng cho chúng ta biết rằng, để tôn trọng và nâng cao phẩm giá con người, mọi người cần thực thi giới răn mới của Người, giới răn yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Người diễn giải như sau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,13-15). Con người là bạn hữu của Đức Giê-su, của Thiên Chúa sao? Đúng vậy, phẩm giá con người thật cao quý, cao quý hơn mọi mong ước hay tưởng tượng của con người.
Trong Bài Giảng Cánh Chung, Đức Giê-su quang lâm nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36). Đồng thời, Người cũng lên án những ai không quan tâm anh chị em mình: “Xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25,42-43). Đức Giê-su đồng hóa mình với những người đói khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù tội, nghĩa là những người rốt hết trong xã hội, những người mà phẩm giá bị tổn thương nghiêm trọng. Người tán dương và ban phần thưởng là hạnh phúc vĩnh cửu cho những ai biết quan tâm những người bần cùng, yếu thế và cho biết số phận ‘cực hình muôn kiếp’ của những ai lãnh đạm với những người khốn khổ quanh mình.
Phẩm giá con người bị tổn thương nặng nề nhất nơi thung lũng sự chết và Đức Giê-su đã tới thung lũng đó. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Người đã tham dự đời sống con người cách đầy đủ nhất kể cả sự chết để tiêu diệt sự chết một lần cho tất cả và ban tặng sự sống dồi dào cho con người cũng như biến đổi muôn vật muôn loài. Quả thực, sự chết thật nghiệt ngã vì trái ngược với ý muốn của con người; sự chết thật nghiệt ngã vì làm tan biến mọi hy vọng của con người; sự chết thật nghiệt ngã vì cướp mất sự sống của con người; sự chết thật nghiệt ngã vì phân rẽ hồn xác con người; sự chết thật nghiệt ngã vì không ai có thể chống lại. Tắt một lời, sự chết thật nghiệt ngã vì hoàn toàn trái ngược với phẩm giá con người. Tuy nhiên, tình yêu của Thiên Chúa được Đức Giê-su thể hiện mạnh hơn sự chết: Tình yêu đó đem lại cho con người đức tin, hy vọng và sự sống vĩnh cửu. Đặc biệt, tình yêu vừa khôi phục, vừa biến đổi, vừa kiện toàn phẩm giá và sự sống con người trong hành trình về với Thiên Chúa.
2.3 Phẩm giá con người theo thánh Phao-lô
Phẩm giá con người cao cả và siêu việt bởi vì phẩm giá đó đã ‘tiềm tàng’ trong Thiên Chúa trước khi vũ trụ hình thành: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” (Ep 1,3-4). Điều thánh Phao-lô trình bày vang vọng lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước, chẳng hạn như lời của Người đối với ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5). Thánh Phao-lô cũng nhìn nhận về cuộc đời và ơn gọi của mình như thế (Gl 1,15). Quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc sâu xa nhất của con người là Thiên Chúa, Người đã ‘chiêm ngắm tác phẩm của Người’ trước khi sáng tạo. Đó là lý do tại sao thánh nhân mời gọi các tín hữu Ê-phê-xô luôn ý thức với phẩm giá và ơn kêu gọi của họ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4,1).
Trong Diễn Từ trước Hội Đồng A-rê-ô-pa-gô, thánh Phao-lô nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người” (Cv 17,28). Đối với thánh nhân, con người không chỉ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà còn được dựng nên trong Đức Giê-su: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Đặc biệt, thánh nhân viết về Đức Giê-su như sau: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1,15). Đồng thời thánh nhân cũng viết: “Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Hai điều quan trọng về Đức Giê-su dưới nhãn quan của thánh Phao-lô: (1) Đức Giê-su là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, (2) Đức Giê-su vừa là ‘Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo’, vừa là ‘Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại’. Như vậy, Đức Giê-su là tất cả.
Thánh Phao-lô không chỉ quan tâm phẩm giá con người trong chương trình sáng tạo mà còn phẩm giá con người trong chương trình cứu độ và thánh hóa, nghĩa là phẩm giá của những người trở nên chi thể của Người nhờ Bí Tích Thanh Tẩy. Chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, ngài viết: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13); trong thư gửi tín hữu Ga-lát, ngài viết: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,26-28). Thánh nhân mời gọi mọi người ý thức về phẩm giá Ki-tô hữu của mình và thực thi giáo huấn của Người để được thông phần ‘tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô’ (Ep 4,13). Đặc biệt, đối với thánh nhân, ai thuộc về Đức Giê-su thì ‘ăn Người’ để nên một với Người và nên một với nhau (1 Cr 10,16-17). Hơn thế nữa, ai thuộc về Đức Giê-su thì mặc lấy Người (Rm 13,14; Gl 3,17); ai thuộc về Đức Giê-su thì nên đồng hình đồng dạng với Người trong mọi sự và được chung hưởng sự sống mới (Rm 6,1-11); đặc biệt, ai thuộc về Đức Giê-su thì thuộc về Thiên Chúa (1 Cr 3,23).
Trong các thư của mình, thánh Phao-lô trình bày về sự công minh của Thiên Chúa đối với mọi người. Điều này có nghĩa rằng, nơi Đức Giê-su, mọi người tìm được sự bình đẳng về phẩm giá cao quý của mình. Chẳng hạn, ngài viết: “Thiên Chúa không thiên vị ai” (Rm 2,11); “Anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Người ngự trên trời và không thiên vị ai” (Ep 6,9); “Không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người” (Rm 10,12); “Không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11). Đối với thánh Phao-lô, phẩm giá phổ quát nơi các Ki-tô hữu thì quan trọng hơn những phân biệt về dân tộc, phẩm trật, nghi thức thờ tự hay bất cứ hình thức phân biệt nào khác mà con người thiết đặt nơi các truyền thống, văn hóa, xã hội. Điều này cũng được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Mặc dù theo ý Chúa Ki-tô, có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Ki-tô” (LG 32).
Phẩm giá con người được kiện toàn và làm cho con người trở thành thụ tạo mới không phải do công trạng bản thân nhưng do ân sủng của Thiên Chúa mà Đức Giê-su ban tặng như lời của thánh Phao-lô: “Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5, 17). Thánh nhân mời gọi mọi người hãy để Thần Khí của Đức Giê-su không ngừng biến đổi: “Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,23-24). Đặc biệt, thánh nhân mời gọi mọi người không ngừng gắn bó với Đức Giê-su để luôn được đổi mới: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu” (Cl 3,10). Trở nên thụ tạo mới luôn là trọng tâm trong giáo huấn của thánh Phao-lô đối với các tín hữu: “Cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6,15). Thánh nhân mời gọi những ai đã ‘trở nên thụ tạo mới’ thì biết định hướng tâm trí mình về môi trường Thiên Chúa.
(còn tiếp)
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Nguồn: hdgmvietnam.com