ĐGH Gioan-Phaolô II: “Thư gửi Người Phụ nữ”

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 1566 | Cật nhập lần cuối: 3/9/2017 8:55:09 AM | RSS

XIN CÁM ƠN CHỊ EM, HỠI NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ!

Tôi xin gởi đến chị em phụ nữ trên toàn thế giới lời chào thân tình nhất của tôi!

1. Tôi xin gởi thư này đến từng chị em và đến tất cả phụ nữ trên thế giới trong dấu chỉ chia sẻ và biết ơn, đang khi gần Hội Nghị Thế Giới lần thứ IV về Phụ Nữ, sẽ họp tại Bắc Kinh vào tháng chín sắp tới.

Trước hết, tôi muốn bày tỏ sự tán thành thật sự của tôi đối với Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã có một sáng kiến lớn lao như thế. Giáo Hội cũng muốn góp phần của mình vào việc bảo vệ phẩm giá, vai trò và những quyền lợi của người phụ nữ, không phải chỉ qua sự đóng góp đặc biệt của Phái Đoàn chính thức của Tòa Thánh vào những việc làm tại Bắc Kinh, nhưng cả bằng việc nói cách trực tiếp với con tim và trí óc của mọi người nữ. Mới đây, nhân cơ hội bà Gertrude Monella, Tổng Thư Ký của Hội Nghị, đến thăm tôi chính vì cuộc gặp gỡ quan trọng ấy, tôi đã muốn trao cho bà một Sứ Điệp trong đó gồm có một số điểm căn bản của giáo huấn Giáo Hội liên quan đến vấn đề. Đó là một sứ điệp mà ngoài hoàn cảnh đặc biệt đã gợi hứng cho nó, còn mở ra đường hướng tổng quát hơn về thực tại và những vấn đề của người phụ nữ cách chung, nhằm phục vụ cho quyền lợi của họ trong Giáo Hội và trong thế giới hiện nay. Bởi vậy, tôi đã gởi sứ điệp đó cho tất cả các Hội Đồng Giám Mục để bảo đảm cho nó được phổ biến rộng rãi nhất.

ĐGH Gioan-Phaolô II: “Thư gửi Người Phụ nữ”

Từ những gì tôi đã viết trong tài liệu ấy, bây giờ tôi muốn nói cách trực tiếp với mỗi người phụ nữ, để suy tư với chị em về những vấn đề và những viễn ảnh của điều kiện người nữ trong thời đại chúng ta, đồng thời đặc biệt dừng lại trên đề tài chính yếu về phẩm giá và các quyền lợi của người nữ, được nhìn dưới ánh sáng Lời Chúa.

Khởi điểm của cuộc đối thoại lý tưởng này không gì khác hơn là lời cám ơn. Như tôi đã viết trong Tông Thư Mulieris Dignitatem, Giáo Hội “uớc ao tạ ơn Chúa Ba Ngôi Rất Thánh về “mầu nhiệm người nữ”, và đối với mỗi người nữ, về những gì làm nên mức độ vĩnh cửu của phẩm giá người nữ, về “những công trình lớn lao của Thiên Chúa” mà trong lịch sử của các thế hệ loài người đã được thực hiện trong nàng và nhờ nàng” (số 31).

2. Lời cám ơn Chúa vì kế hoạch của Ngài cho ơn gọi và sứ mạng của người nữ trên thế giới, cũng trở thành một lời cám ơn cụ thể và trực tiếp đối với các người nữ, với mỗi người nữ, về những gì họ mang lại trong cuộc sống của toàn nhân loại.

Xin cám ơn chị em, hỡi người nữ làm mẹ, vì chị em đã cưu mang người con trong niềm vui và trong đau khổ về một kinh nghiệm độc nhất, chị em đã trở nên nụ cười của Thiên Chúa dành cho đứa trẻ mới chào đời, đã làm người hướng dẫn cho những bước đi đầu tiên của nó, là sự nâng đỡ để nó được lớn lên và là điểm qui chiếu trong những bước đường đời kế tiếp.

Xin cám ơn chị em, hỡi người nữ làm vợ, chị em đã kết hợp một cách không thể rút lại cuộc sống của mình với cuộc sống của một người nam, trong một mối dây của ân huệ hỗ tương giữa việc phục vụ sự hiệp thông và sự sống.

Xin cám ơn chị em, hỡi người nữ làm con và làm chị, làm em, chị em đã mang vào trong gia đình và sau đó trong cuộc sống xã hội những phong phú về sự nhạy cảm của chị em, trực giác của chị em, sự quảng đại của chị em, sự kiên nhẫn của chị em.
Xin cám ơn chị em, hỡi người nữ lao động, đang làm việc trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, chính trị, vì sự đóng góp không thể thiếu mà chị em cống hiến cho sự hình thành một nền văn hóa có khả năng nối kết lý trí và tình cảm, cho một quan niệm sống luôn mở ra với ý nghĩa của “mầu nhiệm”, cho việc xây dựng những cơ chế kinh tế và chính trị giàu nhân tính hơn.

Xin cám ơn chị em, hỡi người nữ sống đời thánh hiến, theo gương của người nữ cao trọng hơn mọi người nữ, Mẹ của Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, chị em đã mở rộng lòng mình với cả sự dịu dàng và trung thành với tình yêu của Thiên Chúa, bằng việc giúp đỡ Giáo Hội và toàn thể nhân loại để sống một sự đáp trả “phu thê” đối với Thiên Chúa, bày tỏ sự hiệp thông cách tuyệt vời mà Ngài muốn thiết lập với thụ tạo của Ngài.

Xin cám ơn chị em, hỡi người phụ nữ, vì chính chị em là người nữ! Với nhận thức rằng chính vì về nữ tính của chị em, chị em làm cho sự cảm thông của thế giới trở nên phong phú và đóng góp cho sự thật của những tương quan nhân bản được trọn vẹn hơn.

3. Nhưng tôi vẫn biết, cám ơn mà thôi thì chưa đủ. Thật đáng tiếc, chúng ta thừa hưởng di sản của một lịch sử của nhiều qui cách lớn, mà trong mọi thời và trong mỗi góc độ, đã làm cho bước tiến của người phụ nữ trở nên khó khăn, không nhìn nhận phẩm giá của họ, biến đổi những đặc quyền của họ, không thiếu những người nữ bị loại trừ và còn bị sống trong cảnh nô lệ. Tất cả điều đó ngăn cản họ thực hiện chính mình cách trọn vẹn, và đã làm cho toàn thể nhân loại nghèo đi về những phong phú thiêng liêng. Tất nhiên không dễ gì qui trách nhiệm chính xác, vì sức lắng đọng văn hóa mà qua nhiều thế kỷ đã hình thành tâm thức và định chế. Nhưng nếu trong điều này, nhất là trong một số bối cảnh lịch sử nhất định nào đó, đã thiếu trách nhiệm khách quan nơi cả con cái của Giáo Hội, thì tôi thật sự hối tiếc. Sự hối tiếc ấy cần được thể hiện đối với cả Giáo Hội bằng một nỗ lực đổi mới lòng trung thành với linh ứng Tin Mừng, mà chính về đề tài giải phóng phụ nữ khỏi mọi hình thức bất công và thống trị, có một sứ điệp luôn hợp thời, phát xuất từ chính thái độ của Đức Kitô. Trong khi vượt qua mọi qui định hiện hành của văn hóa đương thời đối với người phụ nữ, Ngài đã có một thái độ cởi mở, tôn trọng, đón tiếp, dịu hiền. Như thế Ngài tôn trọng nơi người nữ phẩm giá mà nàng luôn có từ trong kế hoạch và trong tình yêu của Thiên Chúa. Trong khi nhìn vào Ngài, vào thời gian sắp kết thúc thiên niên kỷ thứ hai này, tự nhiên chúng ta phải tự hỏi: sứ điệp của Ngài đã được đón nhận và thực hành đến đâu?

Vâng, đã đến lúc nhìn với lòng can đảm của ký ức và thành thực nhìn nhận trách nhiệm vào lịch sử dài của nhân loại, mà người nữ đã đóng góp một phần không kém người nam, và nhiều lúc còn ở trong những điều kiện khó khăn hơn. Đặc biệt, tôi nghĩ đến những người nữ yêu chuộng văn hóa và nghệ thuật, đã dấn thân vào đó bắt đầu từ những điều kiện bất lợi, thường bị loại trừ khỏi một nền giáo dục bình đẳng, sẵn sàng chịu đánh giá thấp, chịu phủ nhận và chịu tước đoạt cả sự đóng góp trí tuệ của mình. Đáng tiếc thay, có nhiều công trình của người nữ, nhưng rất ít được ghi nhận bằng những phương tiện khoa học kỹ thuật biên soạn lịch sử. Nhưng cũng may, nếu thời gian đã chôn vùi những dấu vết tài liệu, thì người ta vẫn không thể không nhận thấy những ảnh hưởng tốt trong nhựa sống đưa vào con người của các thế hệ nối tiếp nhau cho đến chúng ta. Đối với “truyền thống” người nữ lớn lao và bao la này, nhân loại mang một món nợ không lường được. Biết bao nhiêu người nữ đã bị và bây giờ vẫn còn bị đánh giá về khía cạnh thể lý hơn là về trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, công việc trí thức, sự phong phú của tính nhạy bén và nhất là về chính phẩm giá của con người họ!

4. Và rồi phải nói gì về những trở ngại mà tại nhiều nơi trên thế giới còn ngăn cản người phụ nữ hội nhập trọn vẹn vào đời sống xã hội, chính trị và kinh tế? Chỉ cần nghĩ đến ân huệ làm mẹ thường bị xem như hình phạt hơn là được biết ơn nhờ đó mà nhân loại được tồn tại. Chắc chắn còn nhiều việc phải làm để người nữ và người mẹ không phải mang một sự kỳ thị. Việc khẩn cấp là khắp nơi phải có được bình đẳng thật sự về các quyền lợi của con người và như vậy bình đẳng cả mức lương cũng như việc làm, bảo vệ người mẹ lao động, thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng trong quyền gia đình, nhìn nhận những gì gắn liền với các quyền lợi và bổn phận của người dân trong thể chế dân chủ.

Đây là một hành động công bằng, nhưng cũng là một điều cần thiết. Trong chính trị tương lai, những vấn đề hệ trọng đang được tranh luận ngày càng liên quan đến người nữ hơn: thời gian nhàn rỗi, chất lượng sống, di dân, phục vụ xã hội, chết êm dịu, ma túy, y tế và an sinh, môi sinh, v.v. Đối với tất cả các lãnh vực này, sự hiện diện xã hội của người nữ sẽ rất quí giá, bởi vì nó sẽ góp phần làm cho thấy rõ những mâu thuẫn của một xã hội được tổ chức dựa trên những tiêu chuẩn thuần túy hiệu năng và sản xuất, sẽ bắt buộc tái lập những hệ thống tất cả nhằm ưu tiên cho tiến trình nhân bản hóa phác họa “nền văn minh tình thương”.

5. Và rồi khi nhìn vào một trong những lãnh vực tế nhị nhất của tình trạng người nữ trên thế giới, làm sao không nhớ đến chuyện dài và ô nhục – vì thường là những chuyện “ngầm” – về những lạm dụng phạm đến người nữ trong lãnh vực tính dục? Vào lúc sắp bước vào thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta không thể thụ động và chịu đựng hiện tượng này. Đã đến lúc phải mạnh mẽ lên án, bằng cách đưa ra những phương tiện pháp liù bảo vệ, tránh những hình thức bạo lực tình dục, mà thường người nữ là đối tượng. Nhân danh sự tôn trọng con người, chúng ta cũng không thể không tố giác nền văn hóa lạc thú và thương mại đang lan tràn, nhằm cổ võ việc lạm dụng tình dục cách có hệ thống, bằng cách dẫn đưa cả những người con gái tuổi còn quá trẻ đi vào trong vòng hư đốn và dùng thân thể cho việc mua bán.

Trái lại, đứng trước những đồi bại như thế, thật đáng ca ngợi những người nữ, mà với tình yêu anh hùng đối với con mình, vẫn tiếp tục cưu mang một thai nhi gắn liền với sự bất công của những quan hệ tình dục bằng bạo lực. Vàø điều đó không những chỉ trong khuôn khổ của sự tàn ác mà thật đáng tiếc thường xảy ra trong những bối cảnh chiến tranh còn đang tiếp diễn trong thế giới, mà ngay cả trong hoàn cảnh an lạc và hòa bình, thường bị hư hỏng bởi một nền văn hóa quá buông thả trong việc tìm hoan lạc, trong đó càng dễ dàng sinh ra cả những xu hướng của “phần thắng là của đàn ông”. Trong những điều kiện như thế, việc chọn lựa phá thai cho dù luôn là một trọng tội, nhưng trước khi đổ trách nhiệm cho người nữ, đó là một tội ác cần phải gán cho người nam và cho sự đồng lõa của môi trường chung quanh.

6. Bởi vậy, lời cám ơn của tôi đối với người nữ cũng trở nên như lời mời gọi đầy đau buồn, để từ phía mỗi người, và đặc biệt từ phía các quốc gia, các cơ chế quốc tế, biết làm những gì cần thiết để trả lại cho người nữ sự tôn trọng đầy đủ và trọn vai trò của họ. Về vấn đề này, tôi không thể không bày tỏ sự khâm phục của tôi đối với những người nữ thiện chí đã dấn thân bảo vệ phẩm giá của điều kiện người nữ qua việc lấy lại những quyền căn bản về xã hội, kinh tế và chính trị, và họ đã có những sáng kiến can đảm trong lúc việc dấn thân của họ bị coi như một hành động phạm pháp, một dấu hiệu thiếu nữ tính, một sự biểu lộ mang tính chất phô diễn, và có khi cũng là một tội!

Như tôi đã viết trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, trong khi nhìn về diễn tiến lớn lao của việc giải phóng người nữ, người ta có thể nói rằng, đó “là một hành trình khó khăn phức tạp, và đôi lúc không thiếu những sai lầm, nhưng bản chất rất tích cực, mặc dù chưa hoàn tất vì nhiều ngăn trở mà nhiều nơi trên thế giới can thiệp vào để người nữ được nhìn nhận, được tôn trọng, được đánh giá trong phẩm giá riêng của họ” (số 4).

Cần phải tiếp tục trong hành trình này! Tuy nhiên, tôi tin rằng bí quyết để đi cách nhanh chóng con đường tôn trọng đầy đủ về căn tính người nữ, không chỉ qua việc tố giác, mặc dù cần thiết, những kỳ thị và bất công, mà còn và nhất là phải có một kế hoạch thăng tiến thực tế được soi sáng, gồm mọi lãnh vực của đời sống người nữ, khởi đầu từ việc có được một ý thức mới mẻ và phổ quát về phẩm giá của người nữ. Chính liù lẽ đón nhận luật Chúa đã được khắc ghi trong tâm hồn của mỗi người, mang lại cho chúng ta việc nhìn nhận phẩm giá này, dù có nhiều giới hạn lịch sử. Nhưng nhất là Lời Chúa mới cho phép chúng ta nhận ra cách rõ ràng nền tảng nhân học căn bản của phẩm giá người nữ, bằng cách chỉ cho chúng ta thấy nó trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

7. Bởi vậy, chị em rất thân mến, chị em hãy cho phép tôi cùng chị em suy niệm trang Kinh Thánh tuyệt vời nói về việc tạo dựng con người, và nói nhiều về phẩm giá và sứ mạng của chị em trong thế giới.

Sách Sáng Thế nói về việc tạo dựng cách tổng hợp và bằng ngôn ngữ thi văn và biểu trưng, nhưng rất chân thực: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình; Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 27). Hành động sáng tạo của Thiên Chúa được khai triển theo một kế hoạch chính xác. Trước hết, đã nói rằng con người được sáng tạo “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” (xem St 1, 26), lối nói làm sáng tỏ ngay đặc tính của con người trong toàn bộ công trình tạo dựng.

Tiếp đến, Kinh Thánh nói rằng ngay từ đầu con người được tạo dựng “có nam có nữ” (St 1, 27). Chính Kinh Thánh cung cấp việc giải nghĩa về sự kiện này: con người, dù được bao bọc chung quanh bởi vô số các thụ tạo hữu hình, vẫn cảm thấy mình cô đơn (xem St 2, 20). Thiên Chúa can thiệp để làm cho nó thoát khỏi cảnh đơn độc ấy: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2, 18). Bởi vậy, trong việc tạo dựng người nữ đã được khắc ghi ngay từ đầu nguyên tắc trợ tá: trợ tá – phải lưu ý kỹ điều này – không phải chỉ một bên, nhưng hỗ tương. Người nữ là sự bổ sung của người nam và người nam là sự bổ sung của người nữ: người nữ và người nam bổ sung cho nhau. Nữ tính thực hiện “nhân tính” cũng như nam tính thực hiện, nhưng bằng một cách thế khác biệt và bổ sung.

Khi Sách Sáng Thế nói về “trợ tá”, thì không chỉ qui hướng về lãnh vực hành động, nhưng cả lãnh vực hữu thể. Nữ tính và nam tính bổ sung cho nhau không chỉ trên bình diện thể lý và tâm lý, nhưng cả trên bình diện bản thể nữa. Chỉ nhờ tính hai mặt của “nam” và “nữ” mà “nhân tính” mới được thực hiện cách trọn vẹn.

8. Sau khi tạo dựng con người có nam có nữ, Thiên Chúa nói với cả hai: “Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1, 28). Ngài không chỉ ban cho họ quyền truyền sinh để bảo tồn nhân loại trong thời gian, nhưng ủy thác mặt đất cho họ như bổn phận, đòi buộc họ có trách nhiệm quản trị các tài nguyên của mặt đất. Con người, hữu thể có liù trí và tự do, được mời gọi để biến đổi mặt đất. Trong bổn phận này, mà chủ yếu là công trình văn hóa, người nam cũng như người nữ ngay từ đầu đều có trách nhiệm như nhau. Trong tính hỗ tương vợ chồng và phong phú của họ, trong bổn phận chung làm bá chủ và thống trị mặt đất, người nữ và người nam không phản ảnh một sự bình đẳng lắng tĩnh và đồng đều, nhưng cũng không phải là một sự khác biệt sâu thẳm và xung đột cách khác biệt. Mối tương quan của họ tự nhiên nhất, phù hợp với ý định của Thiên Chúa, là “sự hiệp nhất của hai người”, hay nói cách khác là một “tính duy nhất hai mặt” liên hệ với nhau, cho phép mỗi người cảm thấy mối tương quan liên vị và hỗ tương như một ân huệ phong phú và đầy trách nhiệm.

Thiên Chúa đã ủy thác cho “sự hiệp nhất của hai người” này không những chỉ công trình truyền sinh và đời sống gia đình, mà còn cả việc xây dựng lịch sử. Nếu trong Năm Quốc Tế Gia Đình, được cử hành vào năm 1994, người ta chú trọng đến người nữ như người mẹ, thì Hội Nghị ở Bắc Kinh là dịp để có được một sự nhận thức mới mẻ về nhiều đóng góp mà người nữ cống hiến cho đời sống của toàn thể xã hội và các quốc gia. Trước hết, là một sự đóng góp mang tính chất tinh thần và văn hóa, nhưng cũng mang cả tính chất xã hội-chính trị và kinh tế nữa. Thật quá nhiều lãnh vực khác nhau của xã hội, Nhà Nước, văn hóa quốc gia, và nói chung, cả sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, có được là nhờ sự đóng góp của người nữ!

9. Thông thường sự tiến bộ được đánh giá theo từng loại khoa học và kỹ thuật, và cả theo cái nhìn này cũng không thiếu sự đóng góp của người nữ. Tuy nhiên, đó không phải là chiều kích duy nhất của sự tiến bộ, hơn nữa nó cũng không phải là chiều kích chính. Quan trọng hơn cả là chiều kích xã hội-đạo đức, bao gồm những mối tương quan nhân bản và các giá trị của tinh thần: trong chiều kích ấy, thường được phát triển không rộn ràng, bắt đầu từ những liên hệ hằng ngày giữa con người, đặc biệt trong gia đình, chính nơi “năng khiếu của người nữ” mà phần lớn xã hội đang mang nợ.

Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ một tâm tình biết ơn đặc biệt đối với các người nữ làm việc trong nhiều lãnh vực khác nhau của hoạt động giáo dục, ngoài gia đình: các nhà mẫu giáo, trường học, viện đại học, an sinh xã hội, các giáo xứ, các hiệp hội và phong trào. Bất cứ nơi nào có đòi hỏi về một việc huấn luyện, thì người ta có thể nhận ra ngay sự hiện diện của các người phụ nữ sẵn sàng dấn thân trong các tương quan nhân bản, đặc biệt dành ưu tiên cho những người yếu thế và không thể tự vệ. Trong công trình ấy, họ thực hiện một hình thức của tình mẫu tử thật sự, về văn hóa và đạo đức, bởi giá trị thật sự là vô giá, vì ảnh hưởng mà nó mang lại trên sự phát triển của con người và tương lai của xã hội. Và làm sao không nhắc lại ở đây, chứng tá của bao người nữ công giáo và nhiều Dòng Nữ tại các lục địa khác nhau đã thực hiện về giáo dục, đặc biệt cho các trẻ em nam nữ, việc phục vụ chính của họ? Làm thế nào không nhìn với tâm hồn biết ơn đối với các người nữ đã hoạt động và tiếp tục hoạt động về phương diện sức khỏe, không những chỉ trong lãnh vực của các cơ sở y tế đã được tổ chức tốt đẹp, mà thường là trong những hoàn cảnh còn quá thô sơ, trong các nước nghèo nhất trên thế giới, mang lại một chứng tá về tính sẵn sàng mà không thiếu trường hợp phải chịu tử đạo?

10. Bởi vậy, các chị em rất thân mến, tôi ước mong rằng với sự chú trọng đặc biệt suy tư về chủ đề “năng khiếu của người nữ”, không những chỉ để nhìn nhận nơi đó những đường nét của một kế hoạch chính xác của Thiên Chúa cần được đón nhận và tôn kính, nhưng còn phải dành cho kế hoạch đó chỗ lớn hơn trong toàn đời sống xã hội, và cả trong đời sống Giáo hội. Chính trên chủ đề này, hơn nữa đã được bàn đến nhân dịp Năm Thánh Mẫu, tôi cũng đã trình bày cách rộng rãi trong Tông Thư Mulieris Dignitatem, được ban hành vào năm 1988. Và rồi năm nay, nhân ngày Thứ Năm Tuần Thánh, tôi đã muốn liên kết chính Tông Thư này vào Lá Thư mà tôi thường gởi cho các linh mục, bằng cách mời gọi các ngài suy tư về vai trò đầy ý nghĩa mà người nữ thi hành trong đời sống của họ, như người mẹ, người chị em và người cộng tác vào những việc tông đồ. Đó là một chiều kích khác – khác với chiều kích vợ chồng, nhưng nó cũng quan trọng – với vai trò “trợ tá” mà theo Sách Sáng Thế người nữ được mời gọi dành cho người nam.

Giáo Hội thấy trong Đức Maria lối diễn tả tối đa của “năng khiếu nữ giới” và tìm gặp trong Mẹ một nguồn mạch cảm hứng bất tận. Đức Maria đã tự định nghĩa mình là “tôi tớ của Chúa” (Lc 1,38). Chính vì vâng phục Lời Chúa mà Mẹ đã đón nhận ơn gọi đặc biệt của Mẹ, nhưng không dễ gì việc làm vợ và làm mẹ của gia đình Nazaret. Trong khi đặt mình phục vụ Thiên Chúa, Mẹ cũng sẵn sàng phục vụ con người: một việc phục vụ tình yêu. Chính việc phục vụ này đã cho phép Mẹ thực hiện trong cuộc đời Mẹ kinh nghiệm về một việc “cai trị” nhiệm mầu, nhưng đích thực. Không phải tình cờ mà Mẹ được gọi là “Nữ Vương Trời Đất”. Toàn thể cộng đoàn tín hữu kêu cầu Mẹ như thế, nhiều quốc gia và dân dộc kêu cầu Mẹ là “Nữ Vương”. Việc “cai trị” của Mẹ là phục vụ! Việc phục vụ của Mẹ là “cai trị”!

Quyền bính trong gia đình cũng như trong xã hội và trong Giáo Hội cũng phải được hiểu như thế. “Cai trị” là nói lên ơn gọi căn bản của con người, trong tư cách được tạo dựng theo “hình ảnh” của Đấng là Chúa của trời đất, được mời gọi để trở thành dưỡng tử trong Đức Kitô. Con người là thụ tạo duy nhất dưới trần gian “mà Thiên Chúa đã muốn vì chính họ”, như Công Đồng Vaticanô II đã dạy, và Công Đồng còn nói thêm cách ý nghĩa rằng con người “chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ ân huệ chân thành của chính mình” (Gaudium et Spes, số 24).

Việc “cai trị” từ mẫu của Đức Maria hệ tại ở đó. Bằng cả con người của mình, Mẹ đã trở nên ân huệ cho Con Mẹ, và Mẹ cũng trở nên ân huệ cho mọi con trai và con gái của toàn thể nhân loại, khơi dậy lòng tin rất sâu xa của những ai chạy đến cùng Mẹ để được đưa dẫn theo những con đường khó khăn của cuộc đời, đi tới định mạng siêu việt của chính mình. Đến với cùng đích này, mỗi người trải qua các giai đoạn của ơn gọi riêng, một cùng đích định hướng bổn phận trong thời gian của người nam cũng như của người nữ.

11. Trong chiều hướng “phục vụ” này – mà nếu được thực hiện với tự do, hỗ tương và tình yêu, diễn tả “vương quyền” đích thực của con người – thì có thể đón nhận, mà không có những hậu quả bất lợi đối với người nữ, ngay cả một sự khác biệt nào đó về vai trò, trong mức độ khác biệt ấy, không phải là kết quả của sự áp đặt độc đoán, nhưng phát xuất từ những đặc tính của người nam và người nữ. Đó cũng là một điều cần được áp dụng đặc biệt trong nội bộ của Giáo Hội. Nếu Đức Kitô – với sự chọn lựa tự do và tối thượng, được chứng tỏ cách rõ ràng trong Tin Mừng và trong truyền thống liên tục của Giáo Hội – đã chỉ ủy thác cho những người nam nhiệm vụ trở nên “hình ảnh” của gương mặt “mục tử” của Ngài và “Chàng Rể” của Giáo Hội qua việc thực thi chức linh mục thừa tác, thì điều đó không lấy mất gì cả nơi vai trò của các người nữ, cũng như đối với những phần tử khác của Giáo Hội không lãnh lấy chức thánh, bởi vì mọi người đều có được phẩm giá riêng của “chức tư tế chung” đã được gắn liền trong Phép Rửa Tội. Thật vậy, những phân biệt ấy về vai trò không nên cắt nghĩa theo những giới hạn từ vai trò riêng của các xã hội loài người, nhưng bằng những tiêu chuẩn đặc biệt của nhiệm cục bí tích, nghĩa là nhiệm cục của các “dấu chỉ” đã được Thiên Chúa chọn lựa cách tự do để hiện diện giữa loài người.

Hơn nữa, chính trong đường nét của nhiệm cục các dấu chỉ này, cả bên ngoài lãnh vực bí tích, không phải là ít “nữ tính” được sống theo gương mẫu tuyệt vời của Đức Maria. Thật vậy, trong “nữ tính” của người nữ tín hữu, và đặc biệt trong người nữ “thánh hiến”, có một loại “ngôn sứ” nội tại (xem Mulieris Dignitatem, số 29), một biểu tượng khơi động cách mạnh mẽ, người ta có thể nói được là một “tính hình ảnh” hàm súc, được thực hiện cách trọn vẹn trong Đức Maria và diễn tả đúng chính hữu thể của Giáo Hội trong tư cách là cộng đoàn được thánh hiến bằng tính tuyệt đối của một con tim “trinh khiết”, để trở thành “Hiền Thê” của Đức Kitô và “Mẹ” của các tín hữu. Trong chiều hướng của tính bổ túc “hình ảnh” của các vai trò nam và nữ còn có hai chiều kích không thể tách rời của Giáo Hội được đưa ra ánh sáng cách rõ ràng hơn: nguyên lý mang tính chất của Đức “Maria” và nguyên lý mang tính chất của “Tông Đồ-Phêrô” (xem ibid. số 27).

Đàng khác – tôi đã nhắc cho các linh mục trong Thư Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay – chức linh mục thừa tác, trong ý định của Đức Kitô, “không phải là lối diễn tả thống trị, nhưng phục vụ” (số 7). Đó là bổn phận khẩn thiết của Giáo Hội, trong việc đổi mới hằng ngày của mình theo ánh sáng của Lời Chúa, luôn đặt nó rõ ràng hơn, trong việc phát triển tinh thần hiệp thông và trong việc chú tâm làm thăng tiến mọi phương tiện tham dự riêng của Giáo Hội, cũng như qua sự tôn trọng và thẩm định nhiều đặc sủng cá nhân và cộng đoàn mà Thần Khí Chúa khơi dậy để xây dựng cộng đoàn Kitô hữu và phục vụ con người.

Trong lãnh vực bao la của việc phục vụ ấy, lịch sử Giáo Hội trong hai ngàn năm qua, cho dù có nhiều giới hạn, vẫn thật sự nhìn nhận “năng khiếu của người nữ”, trong khi đã thấy xuất hiện trong lòng mình những người nữ danh tiếng đã để lại những danh thơm tiếng tốt của chính mình vượt thời gian. Tôi nghĩ đến đoàn các người nữ tử đạo, các thánh nữ, các thánh mang dấu thần bí xếp hàng trước Thánh Nhan. Đặc biệt, tôi nghĩ đến thánh nữ Catêrina thành Siênna và thánh nữ Têrêsa thành Avila, đã được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ban cho tước hiệu Tiến Sĩ Giáo Hội. Và rồi làm sao không nhắc đến biết bao nhiêu người nữ, được đức tin thôi thúc, đã hiến dâng cuộc đời cho những sáng kiến mang tầm quan trọng xã hội cách lạ lùng nhằm phục vụ cách đặc biệt cho những người nghèo nhất? Tương lai của Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ ba chắc hẵn sẽ không thiếu việc ghi nhận những biểu hiệu mới và tuyệt vời của “năng khiếu nữ giới”.

12. Bởi vậy, chị em rất thân mến, chị em thấy Giáo Hội có nhiều lý do để ước mong rằng, trong Hội Nghị sắp tới, được Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh, người ta sẽ đưa ra ánh sáng sự thật trọn vẹn về người nữ. Ước gì người ta thật sự nêu rõ “năng khiếu của người nữ”, không những chỉ lưu ý đến những người nữ quan trọng và nổi tiếng đã sống trong quá khứ hay trong thời đại chúng ta, nhưng cả những người nữ đơn sơ đang bày tỏ năng khiếu nữ giới của mình, nhằm phục vụ người khác trong việc bình thường hằng ngày. Thật vậy, cách đặc biệt, chính trong việc dấn thân cho người khác trong cuộc sống hằng ngày, mà người nữ đón nhận ra ơn gọi sâu xa của đời mình, có thể người nữ thấy người nam còn hơn cả người nam, bởi vì nàng thấy bằng con tim. Nàng thấy người nam cách hoàn toàn độc lập khỏi những hệ thống ý thức hệ hay chính trị. Nàng thấy người nam trong sự cao cả và trong những giới hạn của họ, và tìm gặp gỡ người nam để trở nên người trợ tá cho người nam. Trong cách đó, kế hoạch căn bản của Đấng Tạo Hóa được thực hiện trong lịch sử nhân loại và không ngừng được đưa ra ánh sáng, trong nhiều ơn gọi khác nhau, vẻ đẹp – không những chỉ thể lý, nhưng nhất là thiêng liêng – mà Thiên Chúa đã ban ngay từ đầu cho loài người và đặc biệt cho người nữ.

Trong khi tôi phó thác cho Chúa qua việc cầu nguyện kết quả tốt đẹp của cuộc gặp gỡ quan trọng tại Bắc Kinh, tôi cũng mời gọi các cộng đoàn giáo hội hãy làm cho năm nay trở thành cơ hội để có được một lời cảm tạ sâu xa đối với Đấng Tạo Hóa và đối với Đấng Cứu Độ thế gian về ân huệ của một thiện ích quá lớn lao như di sản sáng tạo của nhân loại và của chính Giáo Hội.

Xin Đức Maria, Nữ Vương tình yêu, chăm sóc trên các người nữ và trên sứ mạng của họ phục vụ nhân loại, hòa bình, và truyền bá Nước Chúa!

Với sự chúc lành của tôi.

Ngày 29.6.1995

+ Gioan-Phaolô II
Giáo hoàng

Lm. Agostino Nguyễn Văn Dụ (chuyển ngữ)
Nguồn: tonggiaophanhue.net