Mẹ Têrêsa Calcutta (1910-1997) I

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 724 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

“Khi chạm đến các chi thể hôi thối của người phung, tôi ý thức là mình đang chạm đến thân thể của Đức Kitô, cũng là thân thể mà tôi đã nhận lãnh khi hiệp thông dưới hình bánh”. 


Mẹ Têrêsa Calcutta (1910-1997) IBa chuyến đi, ba chặng đường, ba quyết định đã kéo một thiếu nữ đang hạnh phúc khi sống trong gia đình tại Makeđonia, phải rời bỏ nếp sống an bình ấy sang Calcutta dạy dỗ các thiếu nữ địa phương, rồi lại từ bỏ sứ mạng này để hiến thân cho “những người nghèo nhất” trên toàn thế giới. Vào thời ấy, hai chuyến đi đầu tiên của cô không còn khó khăn và nguy hiểm lắm. Cô thiếu nữ tên là Gonxha (hay Agnès) Bojaxhiu, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại Skopje, phần đất Makeđonia lúc ấy đang bị đế quốc Ottoman thống trị, rồi lớn lên trong một gia đình Công Giáo đạo đức, trong bối cảnh đa tôn giáo nhưng không hề có xung đột đặc biệt nào, khi lên 18 tuổi, ước mong trở thành nhà truyền giáo. Cô đến gặp các nữ tu dòng Đức Bà Loretto, có nhà mẹ đặt tại Dublin của nước Ai-len.


Có tới cả trăm người – người trong giáo xứ lẫn bạn bè cùng trường – đến tiễn biệt cô một cách hết sức cảm động khi cô đáp tàu đi Zagreb cùng với mẹ và em gái. Đến đây là đường ai nấy đi, và chia tay vĩnh viễn. Nhưng Gonxha không biết điều ấy. Cô cứ nhìn về phía trước: trước mắt là Dublin, nơi cô sẽ cùng với một cô bạn chậm rãi vượt qua châu Âu để tiến tới.


Dublin chỉ là một chặng đường ngắn với vài ba tuần lễ, đủ cho mẹ Victorine – bề trên tu viện – nhận xét Gonxha hay thinh lặng và nhút nhát, rồi tiếp nhận cô vào dòng. Thế là Gonxha bước vào gia đình thiêng liêng ấy, do Mary Ward thành lập vào thế kỉ 17, chuyên lo giáo dục các thiếu nữ. Chế độ sống tại tu viện rất khắt khe, kỉ luật tu viện cũng rất nghiêm. Để chuẩn bị đi truyền giáo, cô phải học một khoá tiếng Anh hết sức căng.


Chuyến đi thứ hai khởi hành ngày 1 tháng 12 năm 1928, dọc theo lộ trình bưu tín Marcha: qua Colombo, Madras, vịnh Bengale, rồi Calcutta, đó là những chặng đường cô phải đi trong vòng hơn một tháng để tới thế giới Đông Phương. Chặng cuối cùng là Darjiling, cách Calcutta chừng 600 cây số, một thành phố do người Anh thành lập: đó là một nơi khá mát mẻ với độ cao chừng 2000 mét, giữa một thiên nhiên xanh tươi. Tại đó, các nữ tu dòng Loretto có một cơ sở truyền giáo. Gonxha được nhận làm thỉnh sinh, rồi tập sinh tại đó. Cô dành thời gian để cầu nguyện, để sống đời sống cộng đoàn, tập dạy học, cũng như tập gặp gỡ người nghèo trong một trung tâm y tế nhỏ bé. Cô kết thúc thời gian tập sự ở Calcutta – vừa bằng cách lo lấy các văn bằng cần thiết vừa tham gia dạy học ở ‘Loretto House’, một cơ sở của nhà dòng có hai trường học: một trường có đóng học phí  (trường Sainte-Marie) và một trường miễn phí (trường Loretto-Entally) dành cho các thiếu nữ nghèo hay mồ côi. Từ nay, trong dòng cô được gọi là xơ Teresa, có nhiệm vụ dạy dỗ 52 trẻ em nghèo, con số này nhanh chóng trở thành 300; đồng thời giúp mười xơ học tập, đồng thời không quên học hành để tốt nghiệp đại học.


Con đường này, dù đòi phải hiến thân rất nhiều, lại rất thích hợp với Teresa. Ngoài công tác ở trường, cô còn thăm viếng các gia đình nghèo của các khu ngoại ô gần đó, các khu ‘ổ chuột’ của Calcutta. Cô thật hạnh phúc vì việc làm thích hợp, các trẻ em lại rất chịu cô. Cuộc sống của cô thật đơn giản, nhưng đó lại là một cụôc sống đầy hứng thú đối với một thiếu nữ thông minh và quảng đại. Qua thư từ thường xuyên giữa hai bên, mẹ cô luôn nhắc nhở cô bổn phận đầu tiên mà gia đình cô từ lâu nay vẫn trung thành tuân giữ, đó là chia sẻ. Cha cô từng nói: “Đừng bao giờ ăn một miếng gì mà chưa chia sẻ”. Bây giờ mẹ cô lại viết: “Con thân yêu, đừng quên rằng dù con có phải đi tới một miền đất xa xôi như vậy, chính là vì người nghèo”. Các nữ tu dòng Đức Bà Loretto chắc hẳn đã làm tất cả những gì phù hợp với ơn gọi giáo dục của mình để giúp người giàu hiểu ra trách nhiệm của mình đối với xã hội và cách riêng, người nghèo, cũng như để giúp người  nghèo có cơ hội tiếp thu được một nền giáo dục khả dĩ giúp họ có được một cuộc sống xứng đáng. Vì thế, ngay trong dòng mình, xơ Teresa đã có điều kiện thực hiện lí tưởng của mình. Thế nhưng, một chuyến đi nữa đã khiến cô bẻ cuộc đời mình vào một khúc quanh quyết định.


Đó vốn chỉ là một chuyến đi bình thường bằng tàu lửa từ Calcutta tới Darjiling, ngày 10 tháng 9 năm 1946. Người ta tới đó để nghỉ mát, còn cô đến đó mỗi năm một lần để cùng với các chị em tĩnh tâm thường niên. Cô tâm sự với nhà biên sử Ấn Độ là Desmond Doig nhu cầu mới mà cô bỗng chốc nhận ra trong chuyến đi ấy sau khi đã vất vả lắm để tách ra khỏi đám đông kẻ qua người lại ồn ào: “Trong lúc tôi cầu nguyện một mình và thinh lặng, tôi bỗng nhận ra một tiếng gọi rất rõ. Thông điệp mà tiếng gọi ấy chuyển tới  cũng thật rõ ràng: tôi phải từ giã tu viện Loretto để hiến thân phục vụ người nghèo bằng cách sống giữa họ. Đó là một mệnh lệnh. Tôi nhận thức rõ tiếng gọi ấy xuất phát từ đâu. Điều duy nhất tôi chưa rõ lắm là làm cách nào đáp lại tiếng gọi ấy. Nói cách khác, tôi biết rõ mình phải đi đâu, nhưng chưa biết làm sao tới được nơi ấy […] Tôi cảm nhận sâu sắc Đức Giêsu muốn tôi phục vụ Ngài nơi những người nghèo, nơi những người bị bỏ rơi, những người đang sống trong các khu ổ chuột, những người ở bên lề xã hội, những người không có nơi nương tựa nào. Đức Giêsu mời gọi tôi phục vụ Ngài và đi theo Ngài trong sự nghèo khó thật cụ thể, bằng cách chấp nhận một lối sống đồng hoá tôi với những người túng thiếu mà nơi đó Ngài đang hiện diện, đang đau khổ và đang sống” (Monique de Huertas, “Mère Teresa” trong “Le grand livre du mois”, éd. Du Centurion, 1993, p. 37).


“Không thể thực hiện, nhưng rất cần thiết”: đó là nhận xét của cha Henry – phụ trách cộng đoàn kitô hữu tại Entally – về dự phóng của xơ Teresa, sau khi cô bộc bạch tâm hồn với cha linh hướng và với các bề trên. Sau khi làm đơn chính thức xin rời bỏ nội vi, Teresa nhanh chóng nhận ra các phúc đáp: mẹ bề trên tổng quyền dòng Đức Bà Loretto, Toà Thánh, giám mục giáo phận Calcutta đều đồng ý cho người nữ tu trẻ ấy rời nhà dòng tạm thời một năm; nếu dự phóng của cô thất bại, cánh cửa nhà dòng luôn rộng mở để đón tiếp cô.


Sở dĩ của được ban phép ấy là vì tất cả mọi người gần gũi cô đều biết đó không phải là một cơn bốc đồng của trí khôn, cũng không phải là phản ứng tình cảm khi đứng trước cảnh tượng khốn khổ bày la liệt trên các đường phố Calcutta. Nhưng những người muốn cứu trợ các gia đình đang chồng chất lên nhau trong các khu ổ chuột của cái thành phố đầy cám dỗ này đều nghĩ rằng dự phóng của cô là “không khả thi”. Năm 1947, Calcutta bị ảnh hưởng lớn bởi việc Ấn Độ được công nhận độc lập: việc tranh giành đất đai giữa những người theo Ấn giáo và những người theo Hồi Giáo, việc thành lập nước Pakistan phía đông – sau này trở thành nước Bangladesh – đã tạo ra làn sóng hằng triệu người tị nạn muốn trốn khỏi nước Hồi Giáo mới mẻ này. Cứ tưởng tượng 13 triệu dân, trong đó các nhà tài chính, các nhà kĩ nghệ, các nhà trí thức vịnh Bengale chung chạ với một đám đông dân cư luôn ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Trong thảm kịch ấy, đâu đâu cũng thấy nghèo đói, hoàn toàn thiếu vệ sinh và các nạn dịch đáng sợ. Biết bao gia đình phải lấy lề đường làm nhà, phải sục sạo trong rác thức ăn mỗi ngày.


Đúng là “không thể” thực hiện dự phóng của người nữ tu trẻ ấy. Cô là người châu Âu. Vì thế, dù có mặc giản dị một chiếc xari bằng vải trắng, có đường viền xanh, và mang quốc tịch Ấn Độ, có chắc cô được những người đã phải trả giá đắt để người Anh ra khỏi xứ chấp nhận? Và làm sao tìm được các thiếu nữ Ấn Độ thuộc mọi giai cấp theo nếp sống của cô, nếu cô quyết định chăm sóc người nghèo bằng cách làm những việc bạc bẽo nhất, lâu nay vẫn dành cho giai cấp thấp nhất ở Ấn Độ làm? Khi ra khỏi nhà dòng Loretto, không những cô đã từ bỏ sự an ninh vật chất và một gia đình thiêng liêng, trong đó cô đang sống sung sướng, mà cô còn từ bỏ một công tác tông đồ cô hằng ưa thích và coi là việc tông đồ chính hiệu: cô đã đổi tất cả để lấy một việc một việc tông đồ mà cô coi là “việc tồng đồ trực tiếp hơn, qua đó người ta tập nhìn Đức Giêsu dưới khuôn mặt đau đớn của những người nghèo nhất trong mọi người nghèo”.


Sau cùng, đó là một sứ mạng “bất khả thi” khi nhìn tới tính chất phức tập và đa phương trong các nguyên nhân dẫn đến tính trạng nghèo đói tại các quốc gia đã được cộng đồng thế giới xếp vào “thế giới thứ ba”. Phải ưu tiên cho việc nào đây? Chẳng phải là trước hết cần lần cho ra các nguyên nhân của tình trạng nghèo đói này hay sao? Bằng không, có ích gì khi chỉ lôi được ra khỏi cảnh nghèo đói một dúm người và để tình cảnh nghèo đói ấy gần như y nguyên?


Ý thức những thách đố ấy, xơ Teresa dành ngày đầu tiên trong cuộc đời mới của mình để đi qua các đường phố của Calcutta, ngay từ tờ mờ sáng, bên cạnh những người quét đường và những người ngủ trên vỉa hè. Xơ rảo quanh cái “đại dương khốn khổ và tuyệt vọng” ấy. Đáp lại sự hoàn toàn phó thác của xơ, Chúa đã cho xơ một dấu hiệu nhỏ để khích lệ: xơ không mang gì ra khỏi nhà dòng mà chỉ nhận 5 đồng rupi, và chẳng mấy chốc xơ cho những người ăn xin hết 4 đồng. Lúc ấy có một linh mục tiến lại gần xơ và xin xơ một chút quà cho một tờ báo Công Giáo. Hơi do dự một chút, nhưng rồi xơ cũng cho luôn đồng rupi cuối cùng của mình. Đến chiều, biết dự phóng của xơ, vị linh mục ấy đã mang đến cho xơ một phong bì, trong đó đựng 50 rupi. Xơ giải thích: “Lúc ấy tôi có cảm giác rất rõ Chúa đang chúc lành cho công trình của mình và Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi” (Ibid., p. 42).


Đến đêm, xơ được các chị dòng Tiểu Muội đón vào nhà; bản thân các chị cũng sống bằng cách hành khất để cứu trợ các cụ già. Ban ngày, xơ lấy thành phố làm nhà. Trẻ em là những người đầu tiên chú ý tới xơ – một phụ nữ cô độc nhưng có nụ cười rất an bình. Xơ bắt đầu làm lại cái nghề mà xơ đã từng làm hồi 16 tuổi, đó là dạy học. Học trò của xơ là các trẻ em đường phố. Chúng học bảng chữ cái tiếng Bengal, học tin tưởng vào cuộc đời, học tất cả những gì có ích cho chúng có thể lao động và kiếm được tiền cho chúng và gia đình chúng. Trẻ nào siêng năng đi học sẽ được thưởng một cục xà bông – một vật hỗ trợ quí giá để tắm rửa và đề phòng các bệnh nhiễm trùng.

Xơ Teresa dần dần quen với cách tổ chức cuộc sống ngoài đường phố và ở các khu ổ chuột của Calcutta. Xơ sớm hiểu ra rằng đối với người nghèo, giây phút cảm thấy cô đơn kinh khủng và đôi khi, tới mức tuyệt đối là khi chết. Xơ kể lại cho người viết tiểu sử lần tiếp xúc đầu tiên của mình với những người hấp hối bị bỏ rơi: “Một ngày nọ, trong lúc đi tìm người nghèo, tôi phát hiện thấy một phụ nữ đang nằm hấp hối ngoài đường, yếu ớt đến nỗi không thể đuổi mấy con chuột đang gặm các ngón chân của mình. Tôi mang bà ấy đến bệnh viện gần đó, nhưng ở đấy người ta tỏ ra không sẵn sàng đón nhận bà. Sau cùng, trước sự năn nỉ của tôi, họ đành phải đón nhận bà, vừa nhận vừa càu nhàu. Kể từ lúc ấy, tôi quyết định tìm cho ra một chỗ để chăm sóc những người bị bỏ rơi” (Ibid., p. 61).


Đúng là một ưu tiên lạ lùng khi tìm nhà cho người hấp hối, đang khi có biết bao người di cư đến thành phố, chờ người này bỏ đi  và người kia qua đời để nhét mình vào chỗ của người ấy tại một góc đường nào đó, xục xạo trong rác để kiếm thức ăn và hi vọng một cách ngớ ngẩn một ngày nào đó sẽ tìm được việc làm, quên rằng mình đang sống trong một đất nước đại đa số người dân theo đạo Hinđu coi chết là một sự dạo đầu để bước sang một cuộc sống khác, có thể tốt hơn mà cũng có thể xấu hơn cuộc sống hiện tại, tuỳ theo “karma” (‘nghiệp chướng’). Nhưng người phụ nữ - mà bây giờ nhiều người gọi là Mẹ Teresa – không lí luận như các nhà xã hội học; mẹ không có tham vọng nào hơn là chăm sóc Đức Giêsu. Dù Ngài đang xuất hiện dưới bộ dạng loài người thế nào, nhưng làm người nghèo giữa bao người nghèo chính là tiêu chuẩn chắc chắn nhất để nhận ra Đức Giêsu. Con tim mẹ mách bảo rằng người hấp hối cũng có quyền sống những giờ phút cuối đời mình với đầy đủ phẩm giá, có quyền chuẩn bị hoàn thành cuộc đời mình trong bình an thư thái như đang bước vào nhà Chúa. Mẹ không ngại bày tỏ điều ấy với ngài thị trưởng thành phố, và vị này đã giao cho mẹ hai căn phòng lớn nằm kế bên một đền thờ Hinđu kính nhớ nữ thần Kali.


Căn nhà dành cho người hấp hối bị bỏ rơi – mang tên là “Nirmal Hriday” tiếng Bengal, có nghĩa là “Nhà khiết tâm” – được khai trương ngày 22 tháng 8 năm 1952, trùng với ngày kính nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ. Nhà có khả năng chứa 55 người đàn ông và 55 người phụ nữ. Về mặt vật chất, bệnh nhân chỉ được điều tối thiểu: giường nằm sát nhau, kê trên nền nhà xi-măng, rất dễ lau chùi. Tuy dáng người mảnh khảnh, nhưng Mẹ Teresa cứ đều đặn “gom” về nhà những người hấp hối trên vệ đường và các ổ chuột. Mẹ ôm họ trên tay, vừa dịu dàng vừa cứng cát, rồi đặt họ nằm dài trên một nếp giường thô sơ. Tại nhà, đôi tay rộng lớn với những mắt xương lộ rõ của Mẹ đang xoay xở rất khéo để lau chùi những vết thương buồn nôn, thay một bộ quần áo sạch, kiên nhẫn đút cho ăn, nắm lấy tay người hấp hối trong lòng bàn tay mình càng lâu càng tốt để trấn an họ, thường không nói mà chỉ mỉm cười. Mẹ từng nói với chị em: “Hãy luôn luôn giữ nụ cười, hãy cười với Đức Giêsu khi gặp đau khổ. Muốn làm một nhà thừa sai Bác Ái chính hiệu, phải tập chịu đau khổ trong vui tươi”. Mẹ hoàn toàn tôn trọng tôn giáo của mỗi người; không tìm cách cải đạo họ, mà cầu nguyện một cách hết sức tự nhiên cùng với ai yêu cầu mình; người Hinđu nào muốn rảy nước lấy từ sông Hằng đều được tọai nguyện.


Việc tiếp nhận những người nghèo ấy, thường là những người đau ốm và mắc bệnh truyền nhiễm, đã gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong khu phố và giữa những người cuồng tín lo ngại đó là một cách truyền bá đạo. Nhưng dù có bị khiêu khích, thậm chí ném đá, hoạt động của Mẹ vẫn không dừng lại, ngay cả hoạt động của một số thiếu nữ chia sẻ lí tưởng của Mẹ hay những người cộng tác tự nguyện đến giúp các ngài một tay cũng không chùn bước. Mọi bệnh nhân – nam lẫn nữ - bị các bệnh viện từ chối đều được mang tới trên cáng hay đều được dìu tới ‘Nirmal Hriday’. Khi nhà sư ở chùa bên cạnh mắc bệnh dịch tả được đưa tới đây trong một tình trạng hết sức đáng thương, được tắm rửa và chăm sóc, các cuộc công kích mới dừng hẳn. Từ nay mọi người hấp hối đều biết rằng họ đã có một mái nhà; và lần nào cũng như lần nào, khi cúi xuống nghe tâm sự cuối cùng của họ, Mẹ Teresa đều nghe nói: “ Cả đời tôi sống ngoài đường như một con vật, nhưng nay tôi sắp được chết như một thiên thần, được yêu thương và được chăm sóc” – một người được Mẹ tìm thấy trong một cống rãnh và bế trên tay đã tâm sự như thế.


Trong một lần đi thăm thành phố và các vỉa hè, Mẹ Teresa đã đau đớn gặp thấy thân thể bé tí của một trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, nằm trong một thùng rác không có đậy nắp. Thật bất ngờ! Lần này, tay Mẹ run lên vì xúc động trước đứa bé tí hon còn thoi thóp; nhưng Mẹ có một quyết định hết sức nhanh: trẻ con và tất cả những ai được tìm thấy trong tình trạng tương tự như thế đều sẽ được đón nhận, đầu tiên trong căn nhà do một người bạn của Mẹ hiến tặng và sẽ sống cùng Mẹ cũng như các xơ khác, sau đó chuyển sang một căn nhà gần đó – sau này được đặt tên là “Nirmala shishu bhavan”, nghĩa là “Mái ấm cho các trẻ em bị bỏ rơi”.


Mẹ Teresa không quan tâm tới những người trách ngài đã mất thời giờ cho những trẻ em chỉ sống được vài giờ. Phần đông các cháu này khi đưa được về tới nhà thì không còn sống nữa; nhiều cháu sinh non, cân nặng chưa đầy một kí. Nhưng Mẹ không chút hồ nghi về nền tảng sâu xa của việc mình làm: “Chúa ban cho những gì cần thiết. Ngài đã nuôi sống bông hoa và chim trời; Ngài coi các cháu bé ấy là chính sự sống của mình”. Điều Mẹ muốn làm cho các cháu nhỏ này chỉ giản dị là tránh cho chúng bị quăng vào thùng rác hay để chuột gặm. Chính vì thế, Mẹ đã xin phép cấp trên cho Mẹ được nhờ các nhân viên bệnh viện và dưỡng đường đề nghị các bà mẹ tìm cách phá thai hãy giữ con lại và trao nó cho Mẹ khi sinh ra nếu muốn bỏ con. Trên khắp thế giới, Mẹ Teresa là người tích cực bảo vệ quyền được sinh ra: không phải bằng lời nói suông, mà bằng hành động rất hữu hiệu là nhận trách nhiệm hằng ngàn cháu, bất kể nó thuộc địa vị nào.


Mọi trẻ được đưa tới mái ấm Shishu bhavan – ngay trong những tháng đầu tiên đã có tới 200 cháu – sẽ được học cách sống, cách chơi và cười. Sạch sẽ luôn là một bận tâm của Mẹ: Mẹ tắm cho chúng bằng những cử chỉ của một bà mẹ. Thấy một cháu mồ côi không chịu ăn. Mẹ yêu cầu xơ, có dáng dấp bà mẹ quá cố của cháu, dành thời gian ở với cháu cho tới khi cháu quyến luyến xơ: một phương thức rất tốt vì sau đó không lâu cháu đã ăn uống trở lại. Nhiều cháu được các gia đình Ấn Độ hay Âu Châu nhận nuôi. Đó cũng là một điều tưởng là bất khả thi nhưng đã được thực hiện: các gia đình giai cấp thượng lưu đã chấp nhận nuôi các cháu thuộc giai cấp tiện dân, và từ đó cơ quan luật pháp Ấn Độ đã cho phép một trẻ được nhận nuôi có quyền hoàn toàn ngang bằng con cái chính thức. Các bé gái cũng được nhận nuôi, dù người ta thường coi con gái là gánh nặng vô ích vì sẽ phải tốn kém rất nhiều khi cho chúng của hồi môn trước khi về nhà chồng.


(còn tiếp)


 

Trích trong Lucienne SALLÉ, Làm phụ nữ để yêu Chúa

Nguyên tác Pháp ngữ: “Femmes pour L’aimer”, Siloë, Laval, 2000

Chuyển ngữ: Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành

Nguồn: dunglac.org