Dũng mạnh để yêu thương - Martin Luther King (10)
NHỮNG ƯỚC MƠ KHÔNG THÀNH HIỆN THỰC
"Khi nào tôi sang Tây Ban Nha, tôi hy vọng trên đường đi tôi sẽ ghé thăm anh em...."
(Rm 15, 24)
Một trong những điều làm ta phải đau lòng nhất, đó là ít ai trong chúng ta sống đủ lâu để nhìn thấy các ước mơ chân chính nhất trở thành hiện thực. Các hy vọng của tuổi thơ, các hứa hẹn của tuổi trưởng thành, tất cả chỉ là những bản hòa tấu chưa hoàn tất. Trong một bức tranh nổi tiếng, họa sĩ George Fréderic Watt vẽ Thần Hy Vọng ngồi bình thản trên đỉnh địa cầu, đầu cúi xuống, nét mặt buồn buồn, tay gảy đàn - một cây đàn harpe (thụ cầm) chỉ còn lại một dây duy nhất. Có ai trong chúng ta lại không phải đau khổ khi nhìn thấy các niềm hy vọng tiêu tan, các ước mơ không thành hiện thực?
Trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma, ta tìm thấy một minh họa rõ ràng cho vấn đề làm ta nhức nhối khi "mộng không thành thực": "Khi nào tôi sang Tây Ban Nha, tôi hy vọng trên đường đi sẽ ghé thăm anh em?". Thánh Phaolô ước ao sang Tây Ban Nha; như thế, ngài sẽ đem Tin Mừng "đến tận cùng trái đất", vì miền đất này được biết đến như tận cùng của thế giới thời đó. Trên đường về, ngàøi cũng ước ao gặp gỡ các Kitô hữu Rôma -một cộng đoàn tín hữu dũng cảm kiên cường. Càng nghĩ về những điều này, ngài lại thấy lòng tràn ngập niềm vui. Từ nay, ngài tập trung chuẩn bị tâm trí để đem Tin Mừng đến tận thủ đô là Rôma và đến tận cùng đế quốc là Tây Ban Nha.
Niềm hy vọng này làm thánh Phaolô phấn khởi biết bao! Nhưng chẳng bao giờ ngài lại đến Rôma đúng như ý ngài muốn. Trái lại, vì niềm tin vào Ðức Kitô, ngài bị dẫn độ đến đây như một tù nhân và bị cầm giữ tại một căn nhà nhỏ bé. Và cũng chẳng bao giờ ngài rảo bước trên các nẻo đường gió bụi mịt mù tại Tây Ban Nha, ngắm nhìn các sườn đồi thoai thoải hay quan sát đời sống náo nhiệt tại các bến cảng. Ngài bị đem đi giết tại Rôma để làm chứng cho Ðức Kitô. Ðời sống của ngài thật là một câu chuyện bi thảm của một ước mơ không thành hiện thực.
Trong cuộc sống, nhiều người cũng đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Ai trong chúng ta lại không ước mơ đặt chân đến một Tây Ban Nha nào đó, lại không đề ra một mục tiêu quan trọng và cố gắng đạt được mục tiêu đó với một chút ít vẻ vang nào đó? Nhưng cuối cùng ta không đến được Tây Ban Nha như ta mong ước, không hoàn toàn đạt được mục tiêu như ta đề ra. Chẳng bao giờ ta được rảo bước trên con đường Rôma của ta; trái lại, các hoàn cảnh lại đưa đẩy ta phải sống trong một căn nhà nhỏ bé. Có một sự rạn nứt tai hại xuyên qua cuộc đời chúng ta, và cũng có một sự phân chia phi lý và không thể tiên liệu được xuyên suốt dòng lịch sử. Như tổ phụ Abraham, ta sống trên mảnh đất của lời hứa, nhưng thường lại không trở thành "những người đồng thừa kế cùng một lời hứa" (Dt 11,9). Ðiều ta ước mơ luôn vượt khỏi tầm tay.
Sau những năm chiến tranh dành độc lập, Mahamat Gandhi đã phải chứng kiến cuộc chiến tranh đẫm máu giữa người Ấn Ðộ và người Hồi giáo: Ấn Ðộï và Pakistan phân chia thành hai quốc gia và điều này đã làm tiêu tan ước mơ mà ông ấp ủ suốt đời: một nước Ấn Ðộ độc lập, thống nhất, đoàn kết. Tổng thống Wilson đã nhắm mắt lìa đời trước khi thấy Hiệp Hội Các Quốc Gia được thành lập. Nhiều người da đen đã ao ước nhìn thấy ngày mình được sống tự do, nhưng đã phải ra đi trước ngày giải phóng đến. Sau khi cầu nguyện tại vườn Giệtsimani để khỏi uống chén đắng, Ðức Giêsu đã phải uống đến giọt cuối cùng. Thánh Phaolô đã kiên trì và sốt sắng cầu xin Chúa cất cái dằm khỏi thân xác ngài, nhưng nó vẫn đeo đuổi ngài cho đến ngày cuối đời. Các ước mơ không thành hiện thực chính là dấu ấn in sâu vào cuộc đời con người phải chết vậy.
I
Trước khi quyết định phải sống thế nào trong một thế giới mà các ước mơ lớn lao nhất không bao giờ được thành hiện thực trọn vẹn, ta phải tự hỏi: bình thường, người ta phản ứng ra sao trong những trường hợp như vậy?
Có thể ta biến các thất vọng thành những nỗi đắng cay chua xót. Kẻ đi theo con đường này có thể trở thành dửng dưng, lạnh lùng, thù oán đối với Thiên Chúa, đối với những người chung sống với mình cũng như đối với bản thân. Không thể dồn Thiên Chúa hay đời sống vào chân tường, họ trút hết cơn giận lên người khác. Họ không yêu ai và không cần ai yêu mình. Họ không tin tưởng ai và cũng không cần ai tin tưởng mình. Họ độc ác đối với chồng hoặc vợ, bất nhân đối với con cái. Tắt một lời. họ quả là con người đê tiện. Nhìn người khác, việc khác, họ chỉ biết "vạch lá tìm sâu" và không ngừng kêu ca, than vãn.
Phản ứng như trên làm cho tâm trí bị nhiễm độc, nhân cách phải hủy hoại. Thật không có gì tai hại hơn cho một con người khi phải sống trong một tình trạng như vậy. Y học ngày nay cho ta biết rằng, trong một số trường hợp, các bệnh đau dạ dày, thấp khớp, hen suyễn có thể phát sinh từ những bực bội, ấm ức tích trữ lâu ngày. Y học tâm thể nghiên cứu các bệnh phát sinh từ các tổn thương tâm thần, cho thấy rằng oán giận hận thù cũng có thể hủy hoại cơ thể con người.
Cũng có thể có một cách phản ứng thông thường khác: khi thấy hy vọng tiêu tan, con người rút lui vào trong các ranh giới của mình, sống co rúm khép kín, không để người khác đến với mình cũng như từ chối đến với người khác. Những con người như thế chỉ biết giơ tay đầu hàng; không còn cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống, họ tìm cách thoát khỏi cuộc sống để vươn tới một thế giới siêu việt, lạnh lùng. Họ là những "con người thoát tục". Quá dửng dưng để có thể yêu thương và quá lãnh đạm để có thể thù ghét; quá xa lạ để có thể sống ích kỷ và quá yếu nhược để có thể thờ ơ; quá thản nhiên để có thể đón nhận niềm vui và quá lạnh lùng để có thể hứng chịu nỗi buồn. Họ là những con người không chết và cũng không sống. Họ chỉ có mặt đó thôi. Mắt họ mù và không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên; tai họ điếc và không nghe được các giai điệu của bản hùng ca; tay họ chai cứng và không còn cảm nhận được sự mơn trớn dịu dàng ấm áp của trẻ thơ. Sự sống biến mất nơi họ; chỉ còn lại cuộc sống lạnh lùng, trần trụi. Họ trở thành những con người cay nghiệt, yếm thế, bất lực, như Omar Khayyâm mô tả:
"Con người đặt hết tin tưởng vào hy vọng trần thế,
nhưng nó lại tiêu tan thành tro bụi... hoặc có thành tựu,
thì, một đôi khi, như tuyết rơi trên sa mạc,
nó lấp lánh một giờ hoặc hai... và biến mất".
Phản ứng như vậy là tách rời khỏi cuộc sống, lẩn trốn cuộc sống. Các nhà phân tâm học cho biết rằng, nơi những con người sống như vậy, nhân cách ngày càng suy yếu và cuối cùng bị hủy hoại. Ðây là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng bệnh tâm thần phân lập.
Cũng còn có một cách phản ứng thứ ba trước các thất vọng trong cuộc sống: đó là chấp nhận sống theo thuyết định mệnh, cho rằng việc gì đến thì phải đến và các biến cố đã được đặt định trước. Thuyết định mệnh chủ trương rằng tất cả đều đã được định trước và không sao tránh khỏi. Những người sống theo thuyết định mệnh chỉ còn biết cam chịu mọi sự mà họ xem là số phận dành riêng cho họ. Với thời gian, họ cảm thấy mình giống như những đứa trẻ mồ côi mất hút trong không gian vô tận đáng sợ. Tin rằng con người không được hưởng một sự tự do nào cả, họ không còn cố gắng tranh luận, quyết định, mà chỉ còn biết chờ đợi một cách thụ động các sức mạnh bên ngoài quyết định thay cho họ. Họ không bao giờ tỏ ra tích cực trong việc tìm cách thay đổi các hoàn cảnh của cuộc sống, vì họ tin rằng, như trong các bi kịch Hy Lạp, mọi sự đã được sắp đặt và điều khiển bởi các sức mạnh mà con người không thể chống lại. Một số người sống như thế có khi lại là những người rất "sùng đạo", xem Thiên Chúa là Ðấng an bài mọi sự, quyết định số phận mỗi người. Một số bài thánh ca cũng nói lên quan niệm này, như trong đoạn sau đây:
"Ðường đời con có đen tối,
số phận con có hẩm hiu,
con cũng chỉ biết ngậm miệng làm thinh,
và dâng lên Chúa lời ước nguyện:
Xin vâng theo ý Chúa"
Vì tin rằng tự do chỉ là huyền thoại, những người chủ trương thuyết định mệnh xem tất cả là tất định, và phó mặc cho định mệnh - một định mệnh làm họ phải tê liệt và đưa họ đến kết luận rằng họ chỉ là "những quân cờ vô vọng trong ván cờ đang diễn ra ngày đêm". Họ cũng chẳng phải lo lắng gì về tương lai, vì "điều gì đã viết là đã viết", và họ không thể thay đổi được câu nào, chữ nào.
Kẻ sống theo thuyết định mệnh giống như người lún sâu vào trong đụn cát và cuối cùng bị chết ngạt, về trí tuệ cũng như về tâm lý. Bởi vì sự tự do thuộc bản chất con người, nên khi phủ nhận sự tự do, người đó không còn là một nhân vị mà chỉ là một con rối. Dĩ nhiên, người sống theo thuyết định mệnh có lý khi xác tín rằng không có tự do tuyệt đối và tự do luôn được thể hiện trong bối cảnh một cơ cấu nhất định. Kinh nghiệm hằng ngày cho ta thấy con người được tự do đi từ Atlanta, tiến về phía bắc và đến Washington, hoặc tiến về phía nam để tới Miami, nhưng không thể nào tiến về phía bắc để tới Miami và về phía nam để tới Washington được. Tự do luôn ởù trong khuôn khổ của cuộc sống, nhưng có tự do. Ta vừa được tự do vừa được định hướng. Tự do khi suy nghĩ, quyết định, đáp trả trong bản tính có định hướng của chúng ta. Cho dù cuộc sống có ngăn cản ta đến được một Tây Ban Nha rất hấp dẫn nào đó, nhưng ta có khả năng chấp nhâïn thất bại và làm một cái gì đó từ thất bại này, trong khi sống theo thuyết định mệnh chỉ có thể làm cho ta trở thành mù quáng và mất hết khả năng thích nghi với đời sống.
Hơn nữa thuyết định mệnh đặt nền tảng trên một quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, khi cho rằng tất cả mọi sự, tốt hay xấu, tất cả đều do bởi Thiên Chúa. Một tôn giáo lành mạnh luôn chống lại quan niệm xem Thiên Chúa là Ðấng muốn sự dữ cho con người. Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra; nhưng Thiên Chúa không phải là nguồn gốc của sự dữ. Nói rằng Thiên Chúa muốn cho một trẻ em sinh ra phải mù, một con người phải điên, đích thực là một tà thuyết mô tả Thiên Chúa như một ác quỷ thay vì một người Cha đầy lòng yêu thương. Sống theo thuyết định mệnh cũng là một lối sống phó mặc trước những ước mơ không thành hiện thực - một lối sống buông thả và nguy hiểm, không kém lối sống khép kín, oán hận.
II
Vậy đâu là câu trả lời? Là tự ý chấp nhận các hoàn cảnh bất trắc, các nỗi bất hạnh bằng cách bám chắc vào một niềm hy vọng sáng chói, là chấp nhận một thất bại có giới hạn, bằng cách gắn bó với một niềm hy vọng không có giới hạn. Ðây không phải là thái độ cam chịu, đau khổ của kẻ sống theo thuyết định mệnh, nhưng là một thái độ tích cực như ngôn sứ Giêrêmia đã mô tả:
"Ðau khổ của mình chỉ có bấy nhiêu ư?
Thế thì mình sẽ chịu đựng nổi"
(Gr 10,19).
Bạn phải đối phó nghiêm túc với các ước mơ không thành hiện thực. Lẩn trốn vấn đề bằng cách xua đuổi chúng khỏi tâm trí bạn chỉ có thể dẫn đến một tình trạng dồn nén tâm lý đầy nguy hại. Trái lại, bạn hãy đặt thất bại của mình lên bàn mổ và mạnh dạn quan sát thật kỹ càng. "Làm thế nào tôi có thể biến chướng ngại này thành một điểm xuất phát mới?". Bị cầm giữ trong một ngục tù Rôma nào đó và không thể đến được Tây Ban Nha mà tôi mơ ước, làm thế nào tôi có thể biến ngục tù thành bến cảng và ô nhục đau khổ thành sức mạnh cứu độ? Hầu hết những gì xảy đến cho ta có thể ở trong các ý định của Thiên Chúa. Suy nghĩ như vậy làm ta nhìn mọi sự với đôi mắt thiện cảm và giúp ta đánh bại tính kiêu căng. Thánh giá mà người đời độc ác bắt ta phải vác, lại là hàng chỉ trong tấm thảm rộng lớn là sự cứu chuộc mà Thiên Chúa đang ra công dệt nên.
Trong số các nhân vật có ảnh hưởng lớn trên thế giới, nhiều người đã biến mũ gai thành triều thiên: Charles Darwin bị bệnh mãn tính, Robert Louis Stevenson bị bệnh lao phổi, Hellen Keller bị điếc và mù. Họ đã không có thái độ hận đời, phó mặc cho số phận, nhưng đã vận dụng sức mạnh năng động của ý chí để biến các hoàn cảnh tiêu cực thành tích cực. Người viết tiểu sử Georg Friedric Haendel kể lại như sau:
"Sức khỏe tồi tệ, tiền bạc cạn kiệt, ông bị bán thân bất toại. Các con nợ đe dọa tống ông vào ngục. Và cũng có lúc ông cũng đã muốn buông xuôi.... nhưng ông đã trấn tỉnh và đã sáng tác tác phẩm hay nhất trong đời ông: 'Ðấng Mêssia'"
"Halleluia" ra đời không phải trong một ngôi nhà sang trọng, nhưng trong một căn phòng chật hẹp, nghèo nàn.
Có ý định sang Tây Ban Nha nhưng lại kết thúc cuộc đời trong ngục tù Rôma, đây quả là một kinh nghiệm quen thuộc đối với ta. Cũng như biến các mảnh vụn của hy vọng tiêu tan thành cơ may phục vụ ý định Thiên Chúa vậy. Ðối với ta, sống cuộc đời năng động chính là chiến thắng bản thân và hoàn cảnh.
Là những người da đen, chúng ta luôn ước mơ sống tự do nhưng lại bị giam hãm trong một ngục tù là sự kỳ thị chủng tộc. Chúng ta phải phản ứng như thế nào? Bằng thù ghét oán hận chăng? Không đời nào! Vì làm như thế là làm suy yếu và hủy hoại nhân cách của chúng ta. Chúng ta phải kết luận rằng kỳ thị chủng tộc là điều Thiên Chúa muốn và ta đành phải cam chịu chăng? Không đời nào! Vì làm như vậy là xúc phạm đến Thiên Chúa bằng cách gán cho Người những điều xấu xa từ ma quỷ mà đến. Thụ động hợp tác với một chế độ bất công sẽ làm cho kẻ bị đàn áp trở thành xấu xa như kẻ đàn áp vậy. Cách thức hành động có hiệu quả chính là can đảm giữ vững quyết tâm luôn tiến lên và vượt lên trên các chướng ngại và các bất hạnh mà không sử dụng bạo lực. Là chấp nhận các thất bại trong khi vẫn luôn bám chặt vào niềm hy vọng, để rồi, cuối cùng, quyết tâm tiến lên, sẽ mở ra cho chúng ta các cánh cửa dẫn đến thành công. Sống trong ngục tù là sự phân biệt chủng tộc, chúng ta phải tự hỏi: "Làm thế nào chúng ta có thể biến chướng ngại này thành một khởi điểm?" Nhận biết rằng phải chịu đau khổ là điều cần thiết, chúng ta có thể làm cho nhân loại đạt tới tầm vóc viên mãn. Ðể khỏi rơi vào oán ghét hận thù, chúng ta phải xem các thử thách của thế hệ này như một cơ may có khả năng đổi mới chính chúng ta cũng như xã hội nước Mỹ vậy. Các đau khổ chúng ta phải chịu hiện nay, cuộc đấu tranh bất bạo động cho tự do mà chúng ta đang theo đuổi, tất cả có thể cống hiến cho nền văn minh Tây Phương một mầm mống của sự năng động tinh thần mà nền văn minh này đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng để sống còn.
Hẳn là một số trong chúng ta sẽ chết trước khi đến bến tự do, nhưng chúng ta phải tiếp tục cuộc hành trình. Chúng ta phải biết chấp nhận một thất bại có giới hạn, để không bao giờ đánh mất niềm hy vọng không có giới hạn. Có như vậy, chúng ta mới có thể sống mà không bị oán ghét làm mệt mỏi, hận thù làm tiêu hao.
Ðây chính là bí quyết của tổ tiên chúng ta khi phải sống dưới chế độ nô lệ - một chế độ đê hèn và bất nhân. Những người nô lệ bị bắt, bị tách rời khỏi gia đình, bị trói chặt trong con tàu đưa họ từ châu Phi qua châu Mỹ. Ðối với con người, không gì bi thảm hơn là bị tách rời khỏi gia đình, ngôn ngữ và cội nguồn của mình. Trong nhiều trường hợp, chồng mất vợ, con cái mất cha mẹ; vợ bị người da trắng làm nhục, chồng cũng không thể chống lại. Nhưng, dù phải chịu nhiều cực hình, tổ tiên chúng ta vẫn vươn lên để sống còn. Khi một ngày mới bắt đầu, những người nô lệ ra đồng hái bông trên những luống dài vô tận, dưới ánh nắng gay gắt, dưới làn roi của những tên giám thị độc ác. Ngày nào cũng như ngày nào. Thế nhưng, những người nam và những người nữ can đảm này vẫn mơ ước một ngày mai xán lạn hơn. Họ không có cách nào khác là phải làm nô lệ, nhưng họ vẫn bám chặt vào niềm hy vọng được sống tự do. Sống trong một hoàn cảnh hầu như không có lối thoát, họ đã cố giữ cho tâm hồn luôn lạc quan - một sự lạc quan sáng tạo giúp họ đứng vững trong gian truân. Sức sống không bao giờ cạn kiệt nơi họ đã biến tối tăm thành ánh sáng, ô nhục thành hy vọng vậy.
Lần đầu tiên tôi đi từ New York đến London, với loại phi cơ cánh quạt và phải mất 9 giờ 30 phút, thay vì 6 giờ với loại phi cơ phản lực hiện nay. Lúc từ London trở về, người ta cho biết chuyến bay sẽ kéo dài 12 giờ 30 phút, trong khi khoảng cách giữa hai thành phố vẫn không thay đổi. Tại sao phải mất thêm 3 giờ? Khi viên phi công trưởng đến chào hành khách, ông đã giải thích như sau: "Chắc quí vị biết về sức mạnh của gió: khi đi thì xuôi gió, nên mau hơn; còn khi về thì ngược gió, nên chậm hơn". Và ông nói thêm: "Xin quý vị cứ an tâm, với bốn động cơ vừa mạnh vừa khỏe, chúng ta sẽ thắng được gió!". Cuộc đời chúng ta cũng có khi xuôi gió với các niềm vui, các thành công, các hoàn cảnh thuận lợi; nhưng cũng có khi ngược gió, với các nỗi buồn, các thất bại, các hoàn cảnh bất lợi. Phải chăng ta sẽ để cho gió ngược đánh bại ta khi vượt qua Ðại Tây Dương, trong khi các động cơ tinh thần lại không ngừng hỗ trợ ta? Từ chối bị đánh bại, quyết tâm sống dũng cảm và tiến lên dù có nhiều chướng ngại, tất cả phản ánh hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Kẻ đã khám phá ra điều này thì biết rõ rằng không một chướng ngại nào có thể làm mình phải lung lạc, không một "cơn gió ngược nào" có thể làm tiêu tan hy vọng ở nơi mình. Con người đó có thể đứng vững dù có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa.
Thánh Phaolô đích thực là mẫu người sống dũng cảm. Cuộc đời của ngài là một chuỗi dài thất bại. Các dự định không thực hiện được, các ước mơ không thành hiện thực. Muốn sang Tây Ban Nha, nhưng ngài lại bị giam giữ trong một ngục tù nhỏ bé tại Rôma; muốn đi Bithinia, nhưng ngài lại phải xuống Troa. Muốn hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ngài "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em" (2Cr 11, 26). Phải chăng ngài đã để cho các hoàn cảnh thắng được ngài? Ngài viết: "Tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào" (Pl 4,11). Không phải thánh Phaolô đã học sống cam chịu, vì đời sống của ngài cho thấy ngài không bao giờ chấp nhận sống như thế. Trong cuốn "Ngày tàn và sụp đổ của Ðế quốc Rôma", Edward Gilbon viết: "Hơn bất cứ một người nào khác đã đặt chân lên phần đất Tây Phương, Phaolô là người đã có nhiều đóng góp nhất cho việc cổ võ sự tự do tại nơi đây". Phải chăng ngài đã để cho hoàn cảnh đưa đẩy? Ðã học sống cam chịu chấp nhận một định mệnh khôn dò? Ngài đã phân biệt thế nào là giữ cho tâm hồn thanh thản, thế nào là lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, nên ngài đã học sống tự lập, đứng vững và không ngã lòng trước những thất bại ngài phải chịu trong cuộc sống.
Mỗi người trong chúng ta cũng phải học để biết phân biệt như thánh Phaolô đã làm, và, nhờ vậy, cũng được hưởng "sự bình an vượt trên mọi hiểu biết" (Pl 4,7). Bình an mà thế gian có thể hiểu được là thứ bình an khi trời mùa hạ quang đãng, ánh sáng mặt trời chói lọi, tinh thần và thể xác vắng bóng đau khổ, và ta đến