Linh mục đồng hành với Dân Chúa - Gm. Võ Đức Minh
[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Gợi ý từ trình thuật về hai môn đệ trên đường Emmau: Luca 24,13-35.
Bài này đã được trình bày cho các linh mục thuộc Giáo tỉnh Miền Trung tại Đền thánh La Vang, trong “Năm Linh mục”
Trong bầu khí hiệp thông huynh đệ, xin phép dựa trên trình thuật về câu chuyện Chúa Giêsu Kitô đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, để chia sẻ với anh em linh mục thân yêu về đề tài: “Linh mục đồng hành với Dân Chúa”.
Với thiên chức linh mục, chúng ta trở nên “Tư tế, Tiên tri và Mục tử” theo gương Chúa Giêsu Kitô và trong truyền thống Tông đồ của Hội thánh Công giáo. Vậy, với ơn Chúa Thánh Thần, trong tình yêu thương của Mẹ Maria, chúng ta có thể rút tỉa bài học cho sứ vụ đồng hành của chúng ta đối với Dân Chúa.
Thánh Luca giới thiệu với chúng ta 6 điểm nhấn trong cuộc đồng hành của Chúa Giêsu với hai môn đệ Emmau:
1. Đang lúc họ chuyện vãn với nhau (Lc 24,15).
2. Chúa Giêsu tiến lại gần mà đi với họ (Lc 24,15).
3. Ngài dẫn giải cho họ các điều đã viết về Ngài (Lc 24,27).
4. Và họ nhận biết Ngài (Lc 24,31).
5. Ngay giờ đó, họ trỗi dậy (Lc 24,33).
6. Về các điều ấy, các ngươi là chứng nhân (Lc 24,48).
* * *
1. ĐANG LÚC HỌ CHUYỆN VÃN VỚI NHAU (Lc 24,15)
Thánh Luca mở đầu câu chuyện như sau:
“Và này, cũng ngày hôm ấy, vào lúc trời đã xế chiều, hai người trong nhóm họ đang đi tới một làng kia… tên là Emmau”.
Hai người trong “nhóm họ”. Họ là ai? Đó là nhóm người đã được Đức Giêsu gọi và chọn, cho ở với Ngài; Ngài ra vào ở giữa họ để họ thấy và nghe biết về Ngài, được Ngài chia sẻ các mầu nhiệm về Nước Trời một cách rõ ràng, chứ không như quần chúng chỉ được nghe qua các dụ ngôn, đến nỗi sau này Thánh Phêrô có thể nói: “Vậy trong hàng ngũ những người đi với chúng tôi… … phải chọn thêm một người để cùng với chúng tôi làm chứng cho sự sống lại của Ngài” (Cv 1,22). Như vậy hai người đi đến Emmau ít nhất cũng thuộc nhóm quan hệ mật thiết với các tông đồ và với Chúa Giêsu. Họ là tiền thân của hàng linh mục, những người thân cận nhất của các giám mục, kế vị các tông đồ và chăm lo việc của Chúa; họ cũng là tiền thân của tất cả những ai có tương quan mật thiết với Thiên Chúa mà chúng ta gọi chung bằng một danh xưng: Dân Thiên Chúa.
Hai người trên đường đến Emmau vừa đi vừa chuyện vãn… và hơn nữa còn “bàn cãi” với nhau. Từ ngữ “bàn cãi” này, Thánh Luca sẽ dùng lại một lần nữa trong sách Công vụ để nói về cuộc tranh luận tại Công đồng Giêrusalem: Giáo hội cần phải quyết định có nên bắt dân ngoại phải cắt bì và giữ luật Môisen không (Cv 15,6). Và như vậy, câu chuyện hai người đang còn bàn có tầm mức quan trọng như động đến tiền đồ của Hội Thánh. Thật vậy, Luca viết: Họ chuyện vãn với nhau về mọi chuyện mới xảy ra đó. Việc gì? Việc về Đức Giêsu người thành Nadarét; việc mới xảy ra cho Ngài là bị bắt, bị xử, bị kết án, bị đóng đinh và chết trên thập giá. Những việc ấy thiết thân với hai người, vì như trên đã nói, họ thuộc nhóm của Ngài. Họ đã đặt để cả cuộc đời của họ vào hoạt động của Ngài. Nhưng việc mới xảy ra cho Ngài là thảm kịch, không của riêng Ngài, nhưng cũng là của chính bản thân họ. Một trong hai người tên là Clêôphas, đã nói: “Phần chúng tôi đã hy vọng rằng chính Ngài sẽ là Đấng phải giải thoát Israel. Nhưng ngần ấy cơ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi”.
Với cái giọng chua chát này, Thánh Luca đã nhìn thấy bộ mặt ảo não của hai người. Tuy nhiên câu than thở trên cũng kín đáo bộc lộ một tâm trạng chưa mất hết niềm tin. Tất cả những việc ấy chưa rõ rệt, y như cảnh chiều tà ở chung quanh hai người. Họ còn phải chuyện vãn và bàn cãi với nhau. Họ đang lý giải vấn đề. Thế nên người ta có lẽ thường nghĩ quá về họ khi coi hai người như những môn đệ thất vọng, thất thểu đi về Emmau. Nhưng, thái độ này bộc lộ ra chân tướng của họ: Họ là những con người rất dấn thân, thấy thành công đã ở trong tầm tay khi thầy trò đi vào Giêrusalem, rồi đột nhiên diễn biến đổi chiều, không còn gì nữa. Dường như Thánh Luca đã muốn chúng ta hiểu về hai người như vậy để viết tiếp câu sau đây: Chính lúc họ đang còn chuyện vãn và bàn cãi, thì Ngài tiến lại gần bên mà nói với họ... Tâm trạng của hai người môn đệ này nhiều khi rất thiết thực đối với chúng ta và qua kinh nghiệm làm việc mục vụ ở các giáo xứ, chúng ta cũng nhận ra nơi chính đời sống của Dân Chúa.
2. ĐỨC GIÊSU TIẾN LẠI GẦN BÊN MÀ ĐI VỚI HỌ (Lc 24, 15)
Thánh Luca viết: “Xảy ra là đang lúc họ chuyện vãn và bàn tính với nhau thì chính Đức Giêsu tiến lại gần bên mà đi với họ. Nhưng mắt họ bị ngăn ngừa sao, làm họ không nhận ra được Ngài” (24,15-16).
Có thể vì đang trao đổi ráo riết và bàn cãi say sưa, họ không chú ý đến sự hiện diện của một người thứ ba vừa đến nhập cuộc. Đúng hơn, dựa vào kiểu nói của Thánh Luca và cũng là kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh, mắt họ bị ngăn trở sao đó, làm họ không nhận ra được Ngài.
Họ đã không hiểu gì về các lời Đức Giêsu tiên báo cuộc Tử nạn của Ngài (Lc 18,34), họ cũng không thể đoán trước được Ngài có thể sống lại một cách nhẹ nhàng không ai biết. Họ cứ nghĩ là nếu có sự Phục sinh, thì việc này sẽ xảy ra cực kỳ hùng mạnh, khả dĩ làm chấn động cả đối phương và đem lại sự thống trị trên toàn xã hội. Do đó, họ không thể nào nhận ra được Ngài, khi Ngài tiến lại gần bên mà đi với họ.
Và sự thật là chính Ngài đã nhẹ nhàng đến nhập đoàn với họ, lắng nghe họ nói, hiểu rõ tâm trạng của họ mà họ vẫn không hay biết. Đức Giêsu phải lên tiếng trước; Ngài hỏi: “Chuyện gì làm đề cho các ông đi đàng cùng nhau trao đổi?” (24,17). Câu hỏi nhập cuộc rất tự nhiên. Dường như Ngài đã phải kiên nhẫn đợi đến lúc thuận lợi hơn cả để xen vào, và nói đúng hơn, để giúp gỡ rối vấn đề cho họ. Nhưng câu trả lời lại không được như thế. Nó sỗ sàng như muốn đánh bốp vào mặt người ta. Clêôphas nói: “Duy chỉ có ông ngụ tại Giêrusalem mà đã không biết các việc xảy ra ở đó mấy ngày nay” (24,18). Sao ông có thể nói vậy? Dựa vào đâu ông có thể bảo ông khách ngụ tại Giêrusalem? mọi người ở Giêrusalem phải biết các việc xảy ra ở đó như các ông sao? Giọng điệu trách móc của Clêôphas làm chứng các ông rất thiết thân với các việc ấy; họ bắt bất cứ ai cũng phải tham dự, chia sẻ như chính bản thân mình, chẳng phải là lấy mình làm thước đo mọi người sao?
Ngài khoan thai nhẹ nhàng nhập cuộc. Ngài nhẫn nhục lắng nghe tất cả. Phong thái này của Chúa Giêsu thể hiện sứ mạng “đồng hành” một cách tuyệt vời. Thật vậy, như đã nói, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI yêu cầu các giám mục ba điều mà ngài nói ra như ba mệnh lệnh, nhân dịp tiếp các giám mục Việt Nam trong chuyến viếng thăm ad limina 2009: “– Anh em hãy lo lắng cho các linh mục; – hãy hiếu biết các linh mục cách thấu đáo; – và hãy giúp đỡ các linh mục hoàn thành việc thường huấn”. Lời khuyên nhủ này khác nào nhắc các giám mục “hãy đồng hành với các linh mục của mình”. Vâng, có biết bao tâm tư của linh mục mà giám mục không biết; từ đó, chúng ta có thể nói thêm: có biết bao nhiêu trăn trở của giáo dân mà linh mục không hay; có trăm nghìn thành kiến của đồng bào mà người Công giáo chúng ta không thể ngờ được. Đạo nhập thế, nhưng tín hữu, nhất là các mục tử trong đạo, nếu không quan tâm, sẽ là những người xuất thế! Thái độ “đồng hành của Chúa” như soi sáng cho chúng ta.
Đoạn Phúc âm hôm nay cho thấy rõ Đức Giêsu không những lắng nghe, mà còn gợi ý cho hai người nói. Vì sau lời trách móc chua chát của Clêôphas, Ngài đã thản nhiên hỏi thêm: “Những việc gì vậy?” (24,19). Giá như chúng ta biết bắt chước Ngài, đừng vội nóng tai, đỏ mặt, cắt ngang lời người khác. Để cho người ta nói, đã là mở đường cứu độ cho họ rồi! Ngược lại khiến họ không nói nữa, thì trước sau, sẽ rơi vào cảnh Chủ Chiên chẳng biết đoàn chiên và đoàn chiên cũng chẳng muốn nghe tiếng Chủ Chiên.
Và thái độ đối thoại, đồng hành của Ngài rất công hiệu. Họ đã nói ngay, nói hết, nói rất thật. Họ biết và chứng kiến các việc xảy ra trong cuộc Tử Nạn – Phục sinh của Đức Giêsu, nhưng họ không nhìn thấy bàn tay của Thiên Chúa trong các sự việc này. Họ không hiểu sao Đức Giêsu lại để cho cừu địch bắt, xử, đánh đập, đóng đinh. Họ cũng chẳng biết tại sao các Thượng tế lại làm như vậy. Họ không bắt được ý nghĩa của mồ trống và lời các chứng nhân thuật lại. Chưa tìm ra manh mối, họ chưa lý giải được. Tất cả còn như những đống xương khô trong thị kiến của tiên tri Ezêkiel (Ez 37), chưa có Thần khí thổi vào để ráp lại với nhau mà sống lại. Họ chỉ ghi nhận sự kiện mà không giải thích được. Ngược lại sau này ta sẽ thấy, khi Đức Giêsu giải thích xong, lời loan báo các sự việc kia sẽ mở mắt, mở lòng cho họ và dẫn họ đến dấn thân, chia sẻ và đoàn tụ. Nó đem sự sống vào các dữ kiện khiến người ta được cứu độ.
Sau này, khi nhận xét về lời dẫn giải của Chúa Giêsu, chính hai người đã phải thú nhận: “Lòng chúng ta đã không cháy bừng bừng lúc dọc đường Ngài ngỏ lời với ta… đó sao?” (32). Ngài đã biết loan báo. Ngài là người rao giảng gương mẫu. Ngài đồng hành với họ và tế nhị can thiệp đúng lúc. Ngài không nỡ làm tắt tim đèn còn sáng (Gs 42,3), lại còn khêu lên để nó được sáng hơn. Ngài chịu nghe người ta kể lể, dù đã thấu tỏ được tâm tư nguyện vọng của họ. Và cuối cùng, Ngài đã đem được niềm tin lại cho con người để họ được cứu độ và được sống.
3. NGÀI DẪN GIẢI CHO HỌ CÁC ĐIỀU ĐÃ VIẾT VỀ NGÀI (Lc 24,27)
Và giờ đây, Ngài bắt đầu nhiệm vụ cứu chuộc.
Thánh Luca viết: “Ngài đã dẫn giải cho họ các điều đã viết về Ngài”. Đó là công việc lớn, chiếm hết đoạn đường Ngài đi với họ. Suy niệm đoạn văn này, chúng ta như khám phá ra nội dung sứ vụ của chúng ta trong việc “đồng hành với Dân Chúa”. Thật vậy, nội dung việc mục vụ của Hội Thánh và của chúng ta là dẫn giải, làm chứng cho người ta nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu chuộc mọi người.
Trước hết đối tượng của việc tông đồ mục vụ là chính Đức Kitô, Đấng đã được Chúa Cha sai đến để nhân loại được sống và được sống dồi dào. Ngài chính là Đấng Cứu độ loài người. Ngài phải được loan báo cho đến tận cùng thế giới. Và loan báo về Ngài không phải chỉ là nói về Ngài, nhưng còn phải dẫn giải để người ta biết, với nghĩa mạnh của từ ngữ Kinh Thánh là đưa người ta đến kết hiệp mật thiết với Ngài để làm nên một thân thể. Và việc này có thể được vì Ngài không còn là một nhân vật lịch sử, thuộc quá khứ, xa lạ với chúng ta; nhưng Ngài đang sống vì đã kinh qua đau khổ để đạt tới vinh quang. Đó chính là điều Đức Giêsu đã dẫn giải cho hai người trên đường Emmau. Các điều Clêôphas nói trước đây về Đức Kitô chỉ là một mớ những dữ kiện rời rạc. Đức Giêsu đã dẫn giải cho hai người thấy cái lý trước sau, thánh ý cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tất cả những sự việc trên, làm cho họ nhận ra khuôn mặt toàn vẹn của Đức Kitô. Như vậy, Thánh Phaolô thật có lý khi viết: “Tôi chỉ muốn rao giảng một Đức Kitô mà thôi và chính là Đức Kitô chịu đóng đinh” (1Cr 1,23).
Sau khi nghe hai người nói, và trước khi dẫn giải cho họ, Ngài đã bảo họ: “Hỡi những người kém tin, những tâm hồn chậm tin”. Trước đây, khi còn ra vào giữa họ, nhiều lần Ngài đã khiển trách họ như thế. Dường như họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, bởi vì giác quan của họ chưa biết bắt gặp những sự về Thiên Chúa. Trường hợp của Nicôđêmô cũng vậy. Họ đã nghe đã thấy gì đó - và có khi nhiều nữa - nhưng họ không hiểu. Nhiệm vụ của người dẫn giải là đi từ các dữ kiện này để mở mắt mở lòng người ta hiểu biết. Như vậy, đừng người tông đồ nào vênh vang như được khởi sự từ con số không. Ngược lại việc mục vụ chân thật phải biết đi từ những dữ kiện sẵn có, là các ơn của Chúa đã âm thầm làm việc nơi người ta từ lâu rồi. Nhiều khi chúng ta chỉ là người gặt, chứ không phải là người gieo. Và dù có đi gieo chăng nữa, ruộng đất và hạt giống không phải là của ta. Chính Chúa đã dọn sẵn tất cả qua sự xếp đặt kỳ diệu của Ngài và nhờ nhiều người đi trước. Chúng ta quý trọng các nhân tố quan phòng đó và khiêm nhường để “đồng hành với Dân Chúa” cho thích hợp.
Và kìa xem, trước khi dẫn giải, Đức Giêsu đã nắm vững chủ đề, Ngài nói: “Há Đấng Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới được vinh quang sao?”. Ngài là Chúa mà không coi thường phương pháp làm việc. Chúng ta còn phải học hỏi với Ngài nhiều lắm.
Mà quả thực ở đây cần có một chút khiêm nhường: Muốn “dẫn giải”, thì việc đầu tiên là phải biết. Nhưng chúng ta đã biết rõ về Chúa Giêsu chưa để loan báo Ngài? Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ nằm trong sách vở và không phải chỉ dùng trí mà hiểu được. Đó là mầu nhiệm sống, bao la sâu thẳm như đại dương. Thánh Gioan nói: “Ai bảo mình biết Chúa mà không giữ giới răn của Ngài, thì chỉ là người nói láo” (1Ga 2,4). Do đó chúng ta phải tự nhủ: Mình chưa biết Chúa đủ, chưa biết bao nhiêu; và như vậy suốt đời còn phải tìm hiểu, còn phải học về Chúa.
Biết mình chưa biết là điều kiện tiên quyết để có thể biết nhiều hơn. Biết người còn khó hơn nữa, vì chỉ cần mất tình thân mật của họ là trở về ngu muội đối với họ. Do đó không phải việc đọc sách, kể cả sách Thánh, cho chúng ta biết về Đức Giêsu, nhưng là đời sống kết hiệp với Ngài. Rao giảng Chúa mà không sống thân mật với Ngài thì rao giảng gì? Cùng lắm là một Đức Giêsu đã chết, như lời ông Clêôphas nói thao thao bất tuyệt. Còn nếu muốn loan báo một Chúa Giêsu đang sống, lòng phải bừng bừng bốc cháy khi nói về Ngài.
Quả đúng như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói về chương trình thường huấn nhằm mục đích chính yếu là giúp các linh mục trở nên người dẫn đường chính thực cho Dân Chúa, và phương tiện cần thiết để đạt được mục đích ấy là “đào sâu đời sống nội tâm và lo hướng tới sự thánh thiện theo gương Thánh Gioan-Maria Vianney, cha sở khiêm nhường của họ Ars”.
Chúng ta trở lại với Chúa Giêsu. Ngài khởi sự từ Môisen và các Tiên tri để dẫn giải toàn bộ Kinh Thánh cho hai môn đệ. Chắc chắn con đường đi Emmau chẳng dài đủ và thời gian cũng chẳng cho phép làm công việc này. Nhưng Thánh Luca vẫn viết như vậy, để cho các thế hệ tông đồ biết phải nắm vững toàn bộ kho tàng Lời Chúa và dẫn giải có phương pháp cho người ta nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế.
Biết rõ công việc phải làm và cách thức làm công việc ấy, người tông đồ còn phải học với Chúa Giêsu mà bắt đầu cho thật đúng. Các sách Tin Mừng hay viết: Đức Giêsu bắt đầu làm, bắt đầu nói... Ngài chọn lúc, Ngài chọn sách để khởi sự. Trong đoạn văn này, Ngài đã khởi sự đến gần bên hai người mà đi với họ. Ngài luôn sống đúng với chân tính của mình là Đấng phải đến, đã đến và sẽ đến. Thiên Chúa đã hứa ban Ngài đến với chúng ta; các ngôn sứ nhắc nhủ dân trông chờ Đấng phải đến; và khi đến, Ngài kêu gọi những người lầm than vất vả đến với Ngài. Và Ngài loan báo cho môn đệ biết phải chờ Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay Ngài đến với hai người mà họ chưa nhận ra. Đợi đến lúc thuận lợi nhất, Ngài đã can thiệp.
Các môn đệ đầu tiên đã biết bắt chước Ngài. Như Ngài đã đến trong thế gian và đã đến gọi họ, họ cũng theo lệnh Ngài mà đi ra khỏi nhà, đến với người ta trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,14), khởi sự việc đến với muôn dân cho đến tận cùng trái đất. Và theo gương Ngài, Thánh Phêrô đã biết bắt đầu thật đúng lúc, đúng chỗ. Thấy người ta đang bàn tán: “họ bứ rượu rồi”, ông lên tiếng nói: “Những người này không bứ rượu như anh chị em nghĩ đâu...”, rồi ông bắt đầu giảng bài đầu tiên (Cv 2,14-15). Sang đến bài thứ hai, khi thấy người ta kinh ngạc chạy đến nhìn mình cùng với Gioan, Thánh Phêrô nói với dân chúng rằng: Sao anh chị em cứ chăm chú nhìn xem chúng tôi... (Cv 3,11-12). Và khi ra trước toà, Phêrô một lần nữa lại vào thẳng vấn đề: Hôm nay toà tra hỏi chúng tôi về việc chúng tôi làm ơn cho một người tàn tật... thì xin toàn dân nhận rõ rằng: Chính nhân danh Đức Giêsu... mà người ấy được lành mạnh (Cv 4,10). Rồi vừa vào nhà Cornêliô, Thánh Phêrô đã nói thẳng: Cấm chỉ người Do Thái không được làm thân hay đi gặp người biệt chủng, nhưng Thiên Chúa đã tỏ cho tôi biết không được gọi ai là tục hay là nhơ... (10, 28) và ngài xin Cornêliô nói cho mọi người biết ông mời ngài đến đây để làm gì... hầu từ đó, ngài bắt đầu rao giảng Đức Giêsu.
Các môn đệ đầu tiên của Chúa đã hoàn toàn bắt chước Chúa để rao giảng về Chúa, còn chúng ta thì sao? Có lẽ chúng ta cần xem lại nội dung lời rao giảng của chúng ta có nói về Chúa nhiều không và mục vụ của chúng ta có dẫn người ta thật sự đến với Chúa không? Chúng ta dùng những phương pháp nào để làm những công việc ấy? Và vai trò của Lời Chúa trong cách chúng ta chăm sóc các linh hồn như thế nào? Chúng ta làm mục vụ với uy tín của thế gian hay dựa vào sức mạnh của Thánh giá Chúa Giêsu? Và khởi sự, chúng ta có đến như Ngài và như Ngài đã sai chúng ta đến không?
Trước khi quyết định chọn các Tông đồ, Ngài cho họ tiếp cận với quần chúng mang đủ mọi thứ bệnh tật và khổ đau, để các ông nhìn thấy cách Ngài chăm sóc họ. Rồi đưa các ông lên núi, Ngài cầu nguyện suốt đêm, đến sáng mới đặt họ làm tông đồ. Ngài dẫn họ xuống núi, gặp lại quần chúng, vẫn một quần chúng nhiều khổ đau và bệnh tật (Lc 6,12-19). Ngài sai họ đi rao giảng và chữa lành. Có thể Thánh Luca là y sĩ, ông lặng lẽ muốn đồng hoá cứu độ và chữa lành (Lc 9,1). Chữa lành biểu lộ ơn cứu độ, nhưng đồng thời muốn cứu độ cũng phải làm như việc chữa lành. Muốn chữa lành phải biết bệnh và cho đúng thuốc. Người tông đồ phải hiểu và đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người.
Muốn đạt được kết quả này có lẽ phải nhớ lại câu nói của Thánh Gioan Tẩy Giả: Oportet me minui, ille autem crescere (Tôi phải nhỏ đi, để Ngài phải lớn lên - Ga 3,20). Hoặc phải lấy lại tiếng “Fiat - Xin Vâng”của Đức Mẹ (Lc 1,37) và của chính Chúa Cứu Thế khi vào đời “Ecce venio – Này con đến” (Hp 10, 7-9). Thật vậy, chúng ta đều được sai đi không phải để muốn làm gì thì làm, nhưng để làm theo ý Đấng sai chúng ta. Mà Ngài muốn anh em được thánh hoá. Ngài ban Thần Khí thánh hoá cho những người lãnh chức linh mục để đồng hành với Dân Chúa. Chúng ta hãy thi hành 3 chức năng chính yếu của Linh mục theo tinh thần trên.
Khi rao giảng, linh mục hãy cố gắng làm cho cái tôi của mình được nhỏ lại, để Đức Kitô lớn lên trước mắt và trong lòng mọi người. Linh mục không giảng về mình, không giảng công việc mình muốn làm, cũng không kể lể công lao của mình... nhưng giảng về Chúa, giảng công việc của Chúa, làm sáng tỏ khuôn mặt của Chúa và công lao của Chúa. Tất cả đã được mặc khải trong Lời linh ứng. Và trong câu chuyện trên đường Emmau, chính Đức Giêsu cũng đã khởi sự từ Môisen và các tiên tri để diễn giải về Đấng Kitô phải chết và số