Lòng thương xót (2)
(tiếp theo)
2. Mẹ Maria trong Đức Tin của Giáo hội
Một số đoạn Kinh Thánh kể về Đức Maria, chắc chắn không nhiều nhưng mang tính chủ chốt, đã được ghi dấu cách mạnh mẽ trong lòng các tín hữu của mọi thời đại và đã có được một tiếng vang to lớn trong linh đạo Kitô giáo của mọi thế kỷ. Chính Maria đã tiên báo rằng:
“Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1, 48)
Những chứng cớ trong Tân Ước là điểm khởi đầu cho một truyền thống phong phú và sống động, truyền thống đó vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay.
Điểm quy chiếu quan trọng nhất cho tín lý trong toàn bộ truyền thống này chính là Công Đồng Êphêsô (năm 431) với việc công nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Về phương diện này, rất quan trọng để chú ý rằng cuộc luận chiến chủ yếu giữa bè rối Nestorius và thánh Cyrille d’Alexandrie về vấn đề tước hiệu danh dự của Đức Maria, dù rằng ban đầu tước hiệu này không phải mang lại một cuộc tranh luận về Thánh Mẫu học nhưng về Kitô học, vì vấn đề nằm ở chỗ người ta phải quyết định xem liệu Đức Giêsu có thực sự là Con Thiên Chúa theo ngôi vị không. Thánh Mẫu học vì vậy không hề là một thành phần xa lạ với Kitô học, nhưng ngay từ đầu, nó đã có liên hệ và trở nên nền tảng của Kitô học; Thánh Mẫu học vì thế có cơ sở chắc chắn và như vậy có thể mang lại những hoa trái thiêng liêng.
Từ đó nảy sinh rất nhiều lời nguyện của cộng đoàn Kitô hữu, nhưng bài thánh thi và thánh ca được gợi hứng từ những đoạn Tân Ước rồi lồng vào đó một sự diễn giải phong phú hơn. Những đoạn Tân Ước quan trọng nhất đều được tìm thấy trong phụng vụ. Thêm vào đó còn có các bài giảng lễ và các sách chuyên luận vốn đã tồn tại từ thời các Giáo phụ. Việc diễn tả thiêng liêng về Thánh Kinh được gặp lại trong mọi truyền thống của Giáo hội vào thế kỷ thứ nhất, cũng như những người Hy Lạp, những người Latinh, nơi người Cốp, người Syria và người Armênia, ở Nga cũng như ở vùng phương Tây từng bị Rôma đô hộ. Sự diễn tả này cũng đã để lại dấu vết trong việc ca ngợi Đức Maria của những nhà cải cách Tin Lành ở thế kỷ XVI.
Người ta đã tìm thấy sự diễn tả này trong lời cầu nguyện cổ xưa nhất, được soạn vào khoảng năm 300 sau Công nguyên và đã được lan truyền rộng rãi: “Dưới lòng thương xót của Mẹ, chúng con nương ẩn, lạy Thánh Mẫu của Thiên Chúa”. Người ta gặp lại thái độ đầy tín thác này trong rất nhiều lời cầu nguyện sau đó. Người ta hay nghĩ đến Ave Maris Stella (Kính Chào Đức Sao Biển), hay trong bài Lạy Ngôi Sao Biển, Chúng con Kính Chào Mẹ (thế kỷ IX) trong đó có viết như sau: “Hãy thể hiện như là Mẹ chúng con. Qua Mẹ, xin cho Người chấp nhận lời cầu xin của chúng con, Đấng vì được sinh ra cho chúng con mà muốn làm con của Mẹ”. Một trong những lời kinh Maria nổi tiếng nhất, Salve Regina (thế kỷ XI) nhắc đến Maria như là “Mẹ thương xót” và cầu xin Người hướng ánh nhìn thương xót đến chúng ta. Bài thánh ca về Đức Maria của Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh Alma Redemptoris Mater (thế kỷ XII) kết thúc với lời khẩn cầu: “Xin thương xót những người tội lỗi” (peccatorum miserere). Trong Kinh Cầu Đức Bà (Kinh Cầu ở Loreto) (bản nguyên thủy của Giáo hội Đông phương, thế kỷ XII), chúng ta nài xin Đức Maria như “Mẹ của lòng Chúa thương xót”, như “Sức khỏe của người đau bệnh”, “Nơi náu thân của kẻ tội lỗi”, “Sự an ủi của người đau khổ” và “Đấng cứu giúp người Kitô hữu”. Người được kêu cầu trong mọi nỗi thống khổ, không chỉ trong những thiên tai bất ngời, đói kém, dịch bệnh, mưa đá, mà còn trong trường hợp chiến tranh và xung đột với những nhân vật bạo động.
Ngay từ thế kỷ thứ hai, một Giáo phụ nổi tiếng, thánh Irênê thành Lyon, đã gọi Đức Maria là Đấng tháo cởi nút thắt mà Eva đã buộc. Vì vậy rất nhiều Kitô hữu đã cầu khẩn Mẹ, Đấng tháo cởi nút thắt. Mẹ đã giúp họ tháo cởi mọi nút thắt trong cuộc đời của họ, trong tương quan với tha nhân, trong tâm hồn họ, tất cả những gì đã bị nút thắt vì những hành động tội lỗi.
Đôi khi, sự sùng kính này được biến chuyển sang một cách khác thường, ví dụ trong lời khẩn cầu và các tác phẩm về Đức Maria, người ta gọi ngài là “Đấng che chở những kẻ vô lại”, nghĩa là như một Đấng đứng về phía những người không có gì tốt lành, những người tội lỗi, trộm cướp, ngoại tình và như vậy có thể nói Mẹ được xem như là người cùng phe với họ. Vấn đề ở đây nghiêng về sự hài hước nhiều hơn là tầm phào, kết hợp với sự hiểu biết bình dân của Đức Tin, dù thậm chí đôi lúc tấm áo choàng của lòng thương xót được tung ra hơi xa.
Trải qua nhiều thế kỷ, điều được diễn tả trong các bản văn cũng đã xuất hiện bằng nhiều cách qua hội họa và điêu khắc, nhất là qua những hình ảnh sùng kính và các hình ảnh thể hiện ở nhiều địa điểm hành hương. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX, chúng ta có thể tìm thấy ở Syria những tác phẩm về Đức Trinh Nữ dịu dàng Eleoussa, Đấng dịu dàng ôm Con Thiên Chúa trên đầu gối. Bức hình thánh vẽ trên gỗ (icône) nổi tiếng nhất là của họa sĩ Wladimir, xuất thân vào thế kỷ XII tại Constantinople, ngày nay đang được trưng trong phòng trưng bày Tretiakov, Mátxcơva. Người ta tìm thấy những mô phỏng của bức icône này ở Tây Phương trong bức họa của nhà thờ Notre Dame de Grace ở Cambrai, và trong Dòng Nữ Cát Minh (Rôma, Santa Maria di Traspontina) và trong bức tranh Đức Maria Phù hộ của Lucas Cranach. Một bức icône nổi tiếng khác, truyền thuyết cho là của Thánh sử Luca nhưng xuất xứ vào thế kỷ XIII, được dâng kính Đức Bà Cả ở Rôma, được gọi là Salus Populi romani. Một bản sao được tìm thấy ở Nhà thờ chính tòa Thánh Eberhard ở Stuttgart và được gọi tên là Đức Mẹ An Ủi. Cuối cùng, cần phải nhắc đến hình ảnh được vẽ theo kiểu byzantin, bức Maria, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Vào thế kỷ XV bức ảnh này đã được đưa từ đảo Kríti (thuộc Hy Lạp) về Rôma để khỏi rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ và được an toàn. Tại Rôma, bức ảnh này rất được tôn kính và được cả thế giới biết đến như một bức ảnh của lòng sùng kính.
Nhưng chúng ta cần đặc biệt nói đến những phiên bản của bức Pietà, bức tượng này kể về Mẹ Thiên Chúa đang ôm người con đã chết của mình trên đầu gối. Những phiên bản này đã xuất hiện từ thế kỷ XIV. Phiên bản nổi tiếng nhất là bức tượng điêu khắc của Michelangelo, rất được ngưỡng mộ theo đúng nghĩa của từ này, được trưng bày trong nhà thờ thánh Phêrô ở Rôma. Trong những phiên bản này, Đức Maria là được diễn tả như là mẹ của tất cả những người đau khổ, than khóc, những người bị dằn vặt và cần đến sự ủi an. Những bức điêu khắc này cho phép những người nhìn ngắm tìm thấy mình ở trong đó, đặc biệt những người mẹ đang ở trong hoàn cảnh tương tự. Cùng ý tưởng này còn có nhiều bức khác, ít được biết đến hơn, diễn tả hình ảnh Mẹ Maria lịm đi. Những bức tượng đó diễn tả hình ảnh Đức Maria chia sẻ sự bất lực của con mình, qua đó làm toát len sự toàn năng của Thiên Chúa. Hình ảnh này cũng có thể mang lại niềm an ủi cho những ai đang chao đảo vì chìm ngập trong đau khổ nhưng tìm được nơi Đức Tin sức mạnh và lòng can trường.
Cuối cùng, chúng ta còn phải nhắc đến những bức tranh nói về Đức Mẹ Sầu Bi (Maria dolorosa) xuất xứ vào thời kỳ Baroc nguyên thủy và diễn tả Mẹ Maria với trái tim bị lưỡi đòng xuyên thâu (Lc 2, 35). Hình ảnh Đức Mẹ với bảy nỗi đau được thể hiện qua bảy lưỡi đòng nơi ngực có liên hệ chặt chẽ đến bức tranh Mẹ Sầu Bi. Những bức tranh này có thể gây bất ngờ cho chúng ta trước chủ nghĩa hiện thực mà nó diễn tả: Mẹ Maria đã cùng thông cái chết khủng khiếp của con trai Mẹ.
Rõ ràng là Đức Maria đã không được thể hiện với tư cách cá nhân nhưng với tư cách là một mẫu mực lý tưởng, nguyên thủy nhằm củng cố tinh thần cho các Kitô hữu. Điều này rõ ràng được tìm thấy trong các bức họa Đức Mẹ hay thương xót hoặc Đức Mẹ áo choàng - một trong những bức tranh nổi tiếng nhất được tìm thấy ở Ravensbourg. Hình ảnh này dạy chúng ta biết luôn chạy đến nương ẩn dưới tấm áo choàng Từ Mẫu của Mẹ Maria, Đấng che chở chúng ta khỏi mọi nỗi hiểm nguy, đặc biệt trong những lúc chiến tranh. Theo luật pháp xưa của Đức, những đứa trẻ được thụ thai trước hôn nhân được khai báo hợp pháp nếu người ta đặt tấm áo choàng của Mẹ Maria trên vai của chúng (filii mantellati). Hình ảnh này cũng có một ý nghĩa thiêng liêng: tất cả chúng ta, những người bị sinh ra trong tội lỗi (x. Tv 51, 7) được trở thành con cái Chúa nhờ lòng thương xót thuần khiết, mà Đức Maria là đại diện cho hình ảnh và gương mẫu ấy. Chủ đề tấm áo choàng được tìm thấy trong một bài hát về Đức Mẹ thế kỷ XVII Lạy Mẹ Maria, xin hãy mở rộng tấm áo choàng mà trong phiên khúc cuối cùng có lời: “Lạy Mẹ thương xót, xin hãy mở rộng tấm áo choàng của Mẹ trên chúng con” (Bài hát trong bộ lễ của Đức). Tôi còn có một kinh nghiệm lâu năm về những đêm chúng tôi bị đánh bom trong Thế chiến thứ hai và lúc ấy, bài hát này trở thành một điều kỳ diệu có thực đối với chúng tôi.
(còn tiếp)
Đức Hồng y Walter Kasper
Chuyển dịch: Lm. Gioakim Nguyễn Khương Duy, AA
Nt. Marie Paulina Nguyễn Thị Chung, RNDM
Nt. Maria Phạm Bích Giang, OA
Lòng thương xót - Cốt lõi của Tin Mừng và Chìa khóa của đời sống Kitô hữu, NXB Tôn giáo, tr. 240-244
-------------------------------------