Người chủ trại
Mùa hè năm ấy, số người lên thăm ẩn sĩ thật đông. Người ta biết rằng ẩn sĩ không còn sống bao lâu nữa, và trong đám dân làng, những ai cho đến bây giờ chưa hề đến gặp ông, cũng bắt đầu nghĩ đến chuyện đi viếng ông. Và như thế, có nhiều người đã lên đường mà không biết vì sao. Họ có cảm giác sẽ đánh mất một cái gì không hàn gắn được, nếu ẩn sĩ chết đi mà họ chưa có dịp gặp gỡ và hầu chuyện ông.
Một hôm, trong làng người ta kháo nhau rằng chủ trại Phêrô đã lên thăm ẩn sĩ. Nhiều người ngạc nhiên về điều đó. Vì nông trại của anh Phêrô không giống các nông trại khác: người ta có thể nghĩ rằng hình như trại đó bị nguyền rủa. Nông trại này không bao giờ được mùa, cả những khi hàng xóm mừng vì thu hoạch tốt. Đành rằng đất đai của anh gồm những cánh đồng sỏi đá, cây cỏ hiếm hoi, nhưng đó cũng là trường hợp chung cho hết cả làng; vì thế người ta tin phải có nhiều lý do khác gây ra việc thiếu ay mắn này. Các người làm thuê cho anh luôn luôn bất mãn và lười biếng; gia súc không phát triển; cả đến vườn rau cũng vậy, mặc dù nơi đây đất đai khá màu mỡ, cũng chỉ sinh cỏ dại chứ không có gì khác. Tắt một lời, ngay đến một đứa con nít cũng hiểu được rằng có một cái gì không ổn trong nông trại của Phêrô.
Tuy nhiên, người ta không thể nói được rằng vợ chồng anh nông dân đó là những người lười biếng hay thiếu khả năng. Chắc chắn không phải vậy. Họ làm việc còn kham khổ hơn bất cứ ai, họ là những người cần kiệm. Anh chồng luôn đích thân đến các phiên chợ để mua bán cho được lợi hơn. Nhưng một ngày kia khi người ta thấy anh trở về với con ngựa chột và con lừa ít ngày sau ngã bệnh, người ta hiểu ngay rằng khi mọi việc đã lệch lạc, thì không thể làm gì được. Dù có chăm sóc hay cố gắng cũng không thay đổi được gì. Mà trong nông trại anh Phêrô, mọi việc đều không may như thế đấy.
Trong nông trại không có bóng một đứa trẻ. Có người thì cho thế là hay, vì nghĩ rằng một đứa bé sẽ không mấy thích thú ở đấy. Trái lại, người khác - thường là các bà mẹ - cho rằng sự hiện diện của một đứa trẻ có lẽ sẽ thay đổi tất cả trong nông trại.
Vị linh mục, thường đi qua gần đó, thỉnh thoảng lại ghé thăm. Và khi con chiên của ngài than phiền về những mới lo âu của họ, ngài lại tìm cách an ủi rằng những khó khăn ở đời này sẽ cho họ được thưởng trọng hậu ở đời sau. Nhưng ngài không làm sao cho họ thoát khỏi nỗi ưu sầu. Hai vợ chồng anh nông dân cứ phải tiếp tục cuộc sống nặng nề và kém vui.
Hôm đó với tâm trạng không xác tín và gần như miễn cưỡng, anh leo núi đến hang vị ẩn sĩ. Anh như người đứng trước một tình thế mới với một bài toán xa lạ, và tự hỏi mình có nên lo chuyện ấy hay không. Anh có một cảm giác là lạ và khó chịu, vừa xao xuyến vừa chờ đợi. Nếu bây giờ anh quay gót trở về làng, chắc là anh sẽ thấy như trút một gánh nặng. Thế nhưng, dù sao đi nữa, anh cũng không thể đành lòng trở về. Anh tràn đầy hy vọng, mặc dù đang buồn phiền cực độ.
Vừa đến nơi, anh liền bắt đầu kể chuyện đời anh. Anh kể lể dài dòng về những nỗi vất vả, âu lo của mình, về mùa màng thất thoát, về đàn súc vật thường đau ốm hay chết chóc, về những người làm thuê biếng nhác và thiếu khả năng, về công việc làm ăn thất bại không mang lại kết quả mong muốn, tuy anh rất thận trọng và khéo léo.
Đã từ lâu ẩn sĩ không được nghe những chi tiết về cuộc sống thường nhật của con người. Anh nông dân dũng cảm thấy ẩn sĩ không phải là người để anh tham khảo ý kiến về những vấn đề đó: thật vậy, làm sao ông hiểu được những việc đó, ông vốn là người sống trên núi, trong cô tịch, dùng hết thì giờ để cầu nguyện và chỉ nghĩ tưởng đến việc trên trời? Không, anh không nghi ngờ chút nào về ơn gọi thánh thiện và tốt đẹp nhất này. Nhưng ơn gọi đó không thích hợp cho hết mọi người, và những người chuyên chăm cầu nguyện có lẽ không thể cảm thông được với những người ngoài đời.
Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục câu chuyện. Anh kể nhiều về vợ anh và về chính mình, tự hài lòng về sự kiên trì và hăng hái làm việc của hai người. Anh khoe khoang nhiều về vợ mình, nhưng thực ra người ta cảm thấy anh cũng rất tự mãn về chính mình, và xét cho cùng, anh cho rằng Thiên Chúa không đối xử với anh đúng theo công trạng của anh, anh cũng ám chỉ về việc anh năng đi lễ và sùng kính Đức Mẹ. Ngày lễ Đức Bà mới đây, anh đã dâng cúng những mười đồng tiền bạc, và để xin được thu hoạch vụ mùa tốt, anh đã dâng thêm một miếng vàng lá hình lưỡi kiềm để treo vào ngón ta của tượng Đức Mẹ trong nhà thờ họ.
Bất giác, anh nông phu nói những lời sau cùng thật sẽ vì không ai biết được xuất xứ những của dâng cúng tự nguyện trong nhà thờ. Tội kiêu ngạo sẽ dễ len lỏi vào lòng người ta và, như mọi người đều hiểu biết, như thế của dâng hiến sẽ mất hết giá trị. Nhưng với ẩn sĩ thì khác, người ta có thể tâm sự với ông cả những điều đó nữa. Chắc ông sẽ không kể lại cho ai biết miếng vàng đó là của chủ trại Phêrô dâng cúng.
Nhưng anh nông dân luôn trở lại những nỗi xao xuyến âu lo vốn ám ảnh anh ngày đêm. Không thể biết được sẽ có tai họa nào khác sắp giáng xuống trên họ, hoặc những cố gắng của họ có kết quả mỹ mãn chăng. Họ kiệt sức mà chẳng thu lượm được niềm vui nào. Cuối cùng mọi thứ đó có ích lợi gì?
Như thế không có nghĩa là anh mong được chết. Xét cho cùng, anh thích nông trại, gia đình và nếp sống cần cù của anh; nếu không có những thứ đó, anh sẽ buồn rầu và không cảm thấy thoải mái. Nhưng vì anh đã nói rất nhiều đến những nỗi bất hạnh và buồn khổ của mình, nên sau cùng anh đâm ra thương hại chính mình. Kể xong, anh làm thinh để nghe lời giải đáp của nhà ẩn sĩ. Sau một chập im lặng, ông lên tiếng:
- Nỗi bất hạnh xem ra ưa thích ở nhà anh.
- Chắc hẳn là như vậy, anh càu nhàu.
- Có lẽ tại anh đã gọi nó đến, ẩn sĩ tiếp lời.
Vừa nghe tới những lời này, anh sa sầm mặt lại. Anh đã chẳng kể đầy đủ chi tiết về cuộc sống của anh và vợ anh cho ẩn sĩ biết rằng vợ chồng anh không phải là hạng người xấu nhưng là những người làm lụng chất phác sao? Vậy còn muốn đòi hỏi họ điều gì hơn nữa? Anh vừa lườm nguýt, vừa nói với một giọng chua chát:
- Các bạn láng giềng còn ít chịu khó hơn tôi. Hễ họ muốn là họ tự cho phép mình nghỉ thêm ngày thứ hai và ngày lễ. Họ ăn nhậu vui chơi suốt đêm. Dù thế, mọi việc vẫn êm xuôi đối với họ. Còn cha, cha lại cho rằng mọi sự không may mắn đến với tôi là lỗi tại tôi?
- Người ta có thể gọi điều bất hạnh bằng nhiều cách, ẩn sĩ tiếp. Anh có muốn tôi nói cho anh biết không?
- Vâng, người nông dân vẫn cau có đáp lại.
- Tôi không biết phải hiểu thế nào câu trả lời của anh, ẩn sĩ đáp. Miệng anh nói muốn, nhưng lòng anh nói không. Vậy nếu anh không muốn thì anh lên đây làm gì?
Người đàn ông cúi mặt xuống. Anh đổi giọng:
- Tôi xin nghe.
- Người nào làm điều xấu để đạt mối lợi cho mình, người đó sẽ thu hút điều xấu đến với mình. Điều này thật hiển nhiên, và phần đông người ta hiểu trên lý thuyết. Ai hành hạ súc vật bằng cách bắt chúng làm việc quá nặng, hoặc không cho người giúp việc ăn uống đầy đủ, thì không thể hy vọng thành công. Còn người nào cho rộng rãi sẽ được bù lại dư đầy. Phúc Âm nói: “Bạn đong cho người ta đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy”. Chắc anh cũng thừa biết đời là như vậy. Cái đấu tốt nhất chúng ta có thể dùng, chính là tình yêu. Nếu anh yêu chuộng hạt lúa mì đang mọc vì nó cho thấy một phép lạ của Thiên Chúa, nếu anh yêu mọi người và súc vật bằng cách lo lắng cụ thể đến quyền lợi của họ cũng như của chính mình, thì khi đó cuộc sống cũng sẽ dùng đấu tốt đong cho anh, đấu đổ đầy và lắc chặt, khi phải định số phận cho chính anh. Anh thấy không: đó là cách ta có thể làm cho hạnh phúc hay bất hạnh đến với mình.
Người nông dân đã hiểu lời ẩn sĩ nói, nhưng có vẻ không hài lòng. Vì anh không sống hòa thuận với hàng xóm láng giềng, và những người giúp việc trong nông trại anh cũng thường không ở được lâu. Nhưng anh luôn quy lỗi cho hàng xóm và người giúp việc. Thế nhưng ai biết được? Có lẽ chính anh đã không dùng đấu tốt để đong…
- Nhưng, ẩn sĩ tiếp, còn một cách khác để kêu gọi định mệnh của mình đến. Chính điều ta mong đợi thì nó sẽ đến, và điều gì ta lo sợ tất phải xảy ra.
Gương mặt người nông dân tươi lên một chút, nhưng rồi tức khắc sa sầm lại ngay, khi ẩn sĩ hỏi:
- Anh có tin Thiên Chúa không?
Câu hỏi chi mà kỳ cục! Khi người ta dự lễ và xưng tội, khi người ta dâng cúng cho nhà thờ, có thể nào lại là người vô đạo được không?
- Có, anh trả lời, không cần nén cơn tức giận. Vâng, tôi tin Chúa, sau khi đã nghe tôi kể chuyện đời tôi thì cha phải hiểu chứ.
Ẩn sĩ vẫn bình thản. Ông ngọt ngào đáp :
- Anh đã kể cho tôi nhiều điều thật nhưng chỉ khiến tôi nghĩ trái lại; lòng tin vào Chúa xóa bỏ sợ hãi. Người ta không thể đồng thời vừa tin lại vừa sợ. Vì khi ta chiều theo sợ hãi, là ta hết tin rồi.
Ẩn sĩ đưa mắt nhìn ngọn cây. Một đàn quạ mỏ vàng vừa đáp xuống đậu trên cây thông gần đó. Cụ già xòe bàn tay ra. Một con trong bọn đập cánh vài cái, rồi đáp xuống đậu trên tay ông một cách thân mật. Cụ già lấy vài mảnh báng vụn trong chiếc túi da buộc nơi dây lưng, rồi để trong lòng bàn tay cho con chim ăn. Ông từ từ đưa lên gần mặt. Bộ lông đen lánh chạm vào bộ râu trắng toát, như vuốt ve. Rồi ông nâng tay lên, con quạ cất cánh bay đi. Ông nói:
- Anh thấy đó, con chim tín nhiệm nơi tôi, nó đã không sợ.
Người nông dân không biết đối đáp làm sao. Ẩn sĩ tiếp:
- Người ta có thể sợ sự dữ vì hai lý do: trước hết vì chúng ta quá dính bén với những gì thuộc đời này. Chúng ta ưa thích được yên ổn, sung sướng bản thân, sống hạnh phúc và dễ dàng. Vừa khi xảy đến biến cố nhỏ to bất lợi cho ta, hoặc mọi sự không được như ý ta muốn, ta cho đó là một tai họa. Tuy nhiên, đáng lẽ ta không được coi những việc đó là quan trọng như thế. “Lạy Chúa, con chỉ cần có được Ngài là đủ, con còn mong chi trên trời hay dưới đất nữa?” Đó chính là điều ta phải nói như vậy. Nhưng chúng ta đòi hỏi rất nhiều, thường thường chỉ là những chuyện nhỏ mọn, và hễ không được thỏa mãn là ta cảm thấy mình khổ sở.
Người nông dân suy nghĩ và im lặng. Ẩn sĩ tiếp:
- Nhưng còn hơn thế nữa, nỗi lo sợ của chúng ta còn bắt nguồn từ sự thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Anh nghĩ sao, khi một đứa trẻ, trước một việc khó khăn lại từ chối không để cha nó giúp đỡ?
- Tôi cho đó là đứa trẻ thiếu khôn ngoan, người nông dân đáp.
- Còn tôi, tôi bảo cho anh biết đó không phải là một đứa trẻ mà là một người lớn tí hơn. Một đứa trẻ không hành động như thế, nó tin tưởng nơi cha nó. Còn người lớn, bất luận nam hay nữ, luôn luôn cư xử như thế với Cha trên trời. Cuộc sống là một công trình lớn lao mà Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta, nhưng Ngài không buộc ta phải làm lấy một mình. Ngài thừa biết chúng ta không đủ khả năng. Dầu vậy loài người đã cư xử không khác đứa trẻ kia, họ cho rằng cuộc sống quá ư khó khăn đến nỗi họ phải tự lo liệu lấy một mình.
- Nhưng tôi vẫn đọc kinh cầu nguyện mà? Người nông dân ngắt lời.
- Phải, anh cầu nguyện, ẩn sĩ nói. Anh tưởng rằng điều đó giúp ích được chút gì chăng. Nhưng đối với anh, thì sự cố gắng của anh là điều chính yếu và anh tin tưởng vào sự cố gắng đó nhiều hơn.
Người nông dân cúi đầu xuống. Cơn giận dữ đã qua. Ẩn sĩ có lý, và anh cảm thấy điều đó. Cuối cùng anh hỏi:
- Thế chúng ta không cần cố gắng sao?
- Anh hiểu thế nào là cố gắng? Ẩn sĩ hỏi lại.
- Là làm việc không ngừng, không phung phí thì giờ hay của cải. Và còn một điều nữa, là phải cảm biết mình có trách nhiệm về tất cả mọi việc - thí dụ như tôi có trách nhiệm lo cho nông trại tôi - để công việc làm ăn được trôi chảy và cuối cùng được tốt đẹp.
- Đúng vậy, ẩn sĩ trả lời, nhưng có bao giờ anh nghĩ đến sự kiện này là kết quả cuối cùng - sự thành công - không tùy thuộc chúng ta không? Con người không có quyền trên những hoàn cảnh định đoạt kết quả. Bởi thế, khi con người cứ muốn cáng đáng việc ấy, là họ đã gánh lấy một công việc quá sức và ngoài khả năng của họ. Và rút cuộc họ phải lo lắng liên miên.
Người nông dân lại cân nhắc những lời lẽ vị ẩn sĩ, và không thấy có gì để cãi lại được. Đó là sự thật! Phải chăng vợ chồng anh đã lao nhọc và vất vả không ngừng, để rồi chẳng đi đến đâu? Sau một lát anh hỏi:
- Thế thì không cần phải lo lắng sao?
- Không, ẩn sĩ nói, dù điều này có làm anh ngạc nhiên. Khi con người lo lắng về số phận của mình, tức là họ tự đảm nhận phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa để mặc họ làm. Ngài không cưỡng bách. Nhưng con người không tìm được niềm vui.
À, đúng rồi! Điều này đúng thật! Vợ chồng anh chưa bao giờ nếm được niềm vui.
- Vậy phải làm thế nào bây giờ? Người nông dân hỏi lại, sau khi đã ôn lại kỹ càng trong ký ức cuộc sống tại nông trại, và đã thử hình dung những gì sẽ xảy đến trong tương lai nếu anh quyết định từ nay không bận tâm lo lắng nữa.
- Hãy bắt đầu lại, ẩn sĩ đáp. Hãy đong với cái đấu khác. Hãy dùng cái đấu của tình thương. Trước hết phải tín nhiệm vào Chúa, và anh sẽ thấy Thiên Chúa dùng đấu nào đong cho anh bắt đầu từ hôm nay. Nếu chúng ta muốn tuân phục Ngài hết lòng, nếu chúng ta tin tưởng vào điều thiện, thì không có gì ngăn cản phúc lành Thiên Chúa đổ xuống dồi dào trên chúng ta.
Người nông dân nhìn vị ẩn sĩ với vẻ suy tư, rồi anh quyết định hỏi một câu mà anh thắc mắc từ lâu:
- Xét cho cùng, Thiên Chúa có muốn thấy chúng ta được hạnh phúc không? Ngài có muốn cho cuộc đời của chúng ta trôi chảy êm đềm, ngọt ngào không? Hay là Ngài muốn thấy chúng ta bị đè nặng vì lao nhọc, khắc khoải và khốn khổ? Phải chi tôi biết được điều này!
Ẩn sĩ mỉm cười tươi tắn. Ông nói:
- Thiên Chúa muốn thấy chúng ta hạnh phúc.
Người nông dân cãi lại:
- Nhưng…, rồi anh đứt ngang, gương mặt lộ ra một câu hỏi.
Ẩn sĩ giải đáp câu hỏi thinh lặng của khách :
- Có những đau khổ và giày vò là kết quả của điều xấu ta đã làm. Thiên Chúa không muốn chúng ta làm điều xấu, cho nên Ngài không muốn những hậu quả của nó. Nhưng một định luật của cuộc sống, là mọi hành động xấu tự nó đã mang theo một hình phạt. Vốn phải là như vậy, dù là hành động của chính Thiên Chúa hay của bất cứ ai khác, và dù sự dữ chỉ là một lời nói hay một ý tưởng không diễn tả. Trái đắng cho ta biết cây của nó không tốt. Không có gì ở đời này thoát ra ngoài luật lệ đó. Chính đau khổ có vai trò cho ta thấy điều đó. Vì thế chúng ta phải chịu đựng nó. Khi nó hoàn tất nhiệm vụ và khi chúng ta đã am hiểu bài học, thì đau khổ không còn cần thiết cho ta nữa. Chúng ta phải vượt qua nó càng nhanh càng trọn vẹn thì càng tốt. Và chúng ta lột bỏ con người cũ chừng nào, chúng ta đẩy xa ta những gì thuộc thế giới tối tăm chừng ấy. Chính cuộc sống bắt buộc những gì mạnh mẽ trong ta phải lướt thắng những gì yếu kém, những gì lành mạnh phải thắng những gì kém lành mạnh, và đời sống thoải mái phải thay thế sự bần cùng. Khi chúng ta ước vọng như vậy, là chúng ta đi theo định luật bình thường của cuộc sống. Quả thế cuộc sống dành cho chúng ta muôn vàn ơn phúc lành; một thế giới ánh sáng mở rộng trước mắt chúng ta, nếu chúng ta biết tín nhiệm vào định luật tốt của cuộc sống và biết vâng phục nó. Nhưng con người vừa sợ sự dữ lại vừa tin vào sự dữ. Vì thế con người ngã gục trước quyền năng của sự dữ. Ông Gióp đã nói : “những gì tôi e sợ đã đổ xu