Cảm niệm Phật đản

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 1056 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS
Cảm niệm Phật đảnĐể đào sâu hiểu biết về ý nghĩa Đại lễ Phật Đản đối với anh chị em Phật tử, Ban Ban Mục vụ đối thoại liên tôn TGP. xin giới thiệu đến quý độc giả 8 ý nghĩa của biến cố Đức Phật ra đời do Thượng Tọa Thích Thái Hòa trình bày.

*  *  *

Kính thưa quí vị,


Chúng ta kỷ niệm đại lễ Phật Đản, tức là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày ra đời của Đấng Thích Ca Mâu Ni, Đức từ phụ của chúng ta. Ngày ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cõi Diêm Phù Đề này có những ý nghĩa trọng đại và sâu xa như sau:


Ý nghĩa thứ nhất: Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh

Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, nhưng trí tuệ đã bị chôn vùi bởi hàng hàng, lớp lớp vô minh. Do đó, sự xuất hiện Đức Phật trong cõi đời này là để khơi mở trí tuệ cho chúng ta, cho hết thảy chúng sinh, phá trừ tất cả màn hắc ám vô minh đó, để cho hết thảy chúng ta nhận ra được Phật tính ở nơi chúng ta, nhận ra được trí tuệ ở nơi mỗi chúng ta. Tất cả chúng ta đều là dễ thương, hết thảy chúng sinh đều là dễ thương. Nhưng mà, chúng ta có thể làm cho chúng ta xấu đi, mọi người có thể làm cho chính họ xấu đi do tâm ích kỷ, tâm hờn giận. Tâm ích kỷ, tâm hờn giận làm cho chính chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta không còn dễ thương nữa. Tâm ích kỷ, tâm hờn giận làm cho hết thảy chúng sinh không còn là chúng sinh dễ thương nữa.


Do đó, sự ra đời của Đức Phật là khơi dậy tính dễ thương cho chúng ta, khơi dậy tính dễ thương cho tất cả chúng sanh, mà trong thuật ngữ Phật giáo, gọi sự ra đời của Đức Phật với chức năng là khai Phật tri kiến.


Ý nghĩa thứ hai: Đức Phật ra đời là để chỉ bày cho chúng ta một con đường hạnh phúc


Đức Phật ra đời là chỉ bày cho chúng ta một con đường an lạc và nhận diện được đâu là con đường hạnh phúc, đâu là con đường khổ đau, đâu là giá trị cao quý, đâu là không có giá trị ở trong cuộc sống của chúng ta. Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rằng, một đời sống có thể trở thành cao quý khi lời nói, hành động, việc làm của họ được phát xuất từ một tâm hồn cao quý. Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh thấy rõ rằng, lời nói tầm thường, hành động tầm thường, việc làm tầm thường có gốc rễ từ nơi một tâm hồn tầm thường.


Tâm hồn tầm thường là tâm hồn gì? Là tâm hồn ích kỷ, đầy dẫy tham lam, đầy dẫy sân si, đầy dẫy cố chấp, đầy dẫy kiêu ngạo. Lời nói nào phát xuất từ tâm hồn kiêu ngạo, từ tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi... lẽ đương nhiên lời nói đó có khả năng tàn hoại hết thảy hạnh phúc, an lạc của chúng ta, có khả năng tàn phá hết đời sống cao quý của chúng ta. Muốn bảo toàn hạnh phúc, muốn bảo toàn an lạc, Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta rất rõ là phải nuôi dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta muốn hạnh phúc, an lạc mà không biết nuôi dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì hạnh phúc, an lạc không thể nào có được. Chúng ta muốn sống một đời sống cao thượng mà không biết nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì chúng ta không thể nào có đời sống cao thượng được.

Điều đó, Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ. Và hai mươi lăm thế kỷ như vậy, những người nghe lời Đức Phật dạy, họ hành trì, họ thực tập và chính những người đó đã có hạnh phúc, an lạc, không những hạnh phúc, an lạc ở đời sau mà hạnh phúc, an lạc ngay trong đời này. Bởi vậy, trong Kinh nói rằng, Đức Phật ra đời là để “Thị Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Thị Phật Tri Kiến là chỉ rõ bản chất giác ngộ cho hết thảy chúng sinh. Khi mà chúng sinh nhận ra, thấy rõ bản chất giác ngộ đó rồi, thì bắt đầu xây dựng đời sống hạnh phúc, an lạc cho mình và cho hết thảy mọi người.


Ý nghĩa thứ ba: Đức Phật ra đời khiến cho chúng sinh, dạy cho chúng sinh thành tựu được giác ngộ ngay ở trong đời sống của chính mình


Giác ngộ là giác ngộ ngay trong đời sống của chính mình, ngoài đời sống của chính mình ra không có đời sống giác ngộ nào để cho chúng ta đi tìm kiếm. Chúng ta có thể tìm kiếm là tìm kiếm giác ngộ ngay ở thân và tâm của chúng ta. Chúng ta có thể đi tìm giác ngộ ngay trong đời sống của chúng ta, chúng ta không thể vứt bỏ cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi, cách tiếp xúc giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà có sự giác ngộ. Do đó, Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta rằng, đời sống của chúng ta, dù một kẻ tầm thường đến mức nào đi nữa cũng có khả năng giác ngộ. Một người đau khổ tột cùng cũng có thể vươn mình đi đến đời sống hạnh phúc, an lạc. Dù một kẻ rất tầm thường cũng có thể vươn mình đi đến đời sống thánh thiện, cao thượng.


Điều đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta, cho hết thảy chúng sinh hơn hai mươi lăm thế kỷ. Trong lịch sử, cũng như trong đời sống thực tế, chúng ta đã thấy bao nhiêu kẻ trong đời sống tầm thường, họ không gặp Phật pháp, họ không nghe được lời giáo huấn cao quý của những Bậc phạm hạnh, nhưng khi họ gặp được thì họ có cơ duyên trở thành người cao quý. Bao nhiêu kẻ bất hiếu với cha, bất hiếu với mẹ, nhưng khi gặp thầy hiền, bạn tốt, sống trong một khung cảnh dễ thương, họ trở thành một con người hiếu kính, một con người thuần thiện. Điều đó đã chứng tỏ rằng, chúng ta có thể giác ngộ được, nhận ra được cái tính chất cao thượng của chúng ta ngay trong đời sống của chúng ta.


Ngày xưa, khi Vua A Dục chưa gặp Phật pháp là một vị Vua hết sức tàn ác, tàn ác đến nỗi giết cha, giết chín mươi chín người anh để đoạt ngôi. Thế mà khi A Dục gặp được một vị Thánh tăng giáo hóa, thì bao nhiêu điều xấu ác của ông đã trở thành con người hoàn thiện. Nói như vậy để cho tất cả chúng ta thấy rằng, cái ác, cái xấu ở giữa đời không đâu là không có và không lúc nào là không có. Vậy, chúng ta không sợ rằng chúng ta xấu, chúng ta không sợ rằng chúng ta ác, mà chỉ sợ rằng, chúng ta không nhận ra điều ác để tránh, không nhận ra được điều xấu để chúng ta từ bỏ. Chúng ta chỉ sợ rằng, chúng ta bị vô minh ám chướng, nhận thức sai lầm, để rồi bị đầu độc mà không nhận ra được giá trị cao quý trong đời sống của chúng ta, để chúng ta vươn mình đi tới cái cao quý, tốt đẹp.


Ngày xưa, có một vị Tổ dạy rằng:


“Bất úy tham sân khởi

 Duy khủng tự giác trì”


Nghĩa là:


“Không sợ hãi tham sân khởi dậy,

 Mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm”.


Nếu mình hiểu được đạo, giác ngộ được đạo, thì bao nhiêu xấu xa, bao nhiêu cái tầm thường ở trong đời sống cuả mình cũng được chuyển hóa thành cái cao thượng, có ý nghĩa. Bởi vậy, mà trong Kinh diễn tả rằng, Đức Phật ra đời với ý nghĩa là “Ngộ Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh, nghĩa là làm cho hết thảy chúng sinh giác ngộ được những gì mà Đức Phật đã giác ngộ, hiểu rõ bản thân mình đúng như những gì mà tuệ giác đã nhận ra, chứ không phải hiểu bản thân mình bằng vô minh ái nghiệp.

Ý nghĩa thứ tư: Đức Phật ra đời dạy dỗ, giáo hóa, dìu dắt, hướng dẫn khiến cho chúng ta và hết thảy chúng sinh đều sống cuộc đời như Đức Phật đã sống

Nghĩa là, Đức Phật đã sống như thế nào, Đức Phật biết như thế nào thì Ngài sống như thế đó, Ngài nói như thế nào, thì Ngài làm như thế đó. Ngài làm như thế nào, thì Ngài nói như thế đó. Ngài biết rằng tham là nguy hiểm, tham là mất nhân cách, tham là làm cho mình nghèo đi, Ngài biết như vậy cho nên ngài không tham. Còn ai thấy tham làm cho mình giàu , làm cho mình hạnh phúc thì người đó cứ tham. Nhưng càng tham lam thì lại càng đau khổ, càng tham thì lại càng mất nhân cách. Đức Phật nói, càng tham thì lại càng làm cho mình tầm thường, càng tham thì làm cho mình càng nhỏ nhoi; càng tham thì lại càng làm cho cha con xa nhau, càng tham thì lại càng làm cho vợ chồng xa nhau, anh em xa nhau, bạn bè xa nhau.

Đức Phật đã nói điều đó hơn hai mươi lăm thế kỷ và những kẻ trí ở trong đời, họ đã đón nhận nó và đã sống. Những người nào sống trong đời sống với tâm ly tham thì người đó đầy đủ nhân cách, người đó thật sự hạnh phúc. Người đó sống trong gia đình họ hạnh phúc, người đó đi giữa họ hàng họ hạnh phúc, họ đi ra giữa xã hội họ hạnh phúc, họ đem được nhiều lợi ích cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và người đó không những hạnh phúc trong đời này , mà đời sau họ cũng hạnh phúc. Bởi vậy, Như Lai nói những gì Như Lai biết, Như lai đã làm, Như lai đã chứng nghiệm, Như Lai đã thấy rõ, Như Lai đã sống.

Như vậy, Đức Phật ra đời với ý nghĩa thứ tư là những gì Ngài nói thì Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm Ngài mới nói. Còn tất cả chúng ta chưa làm mà đã nói, chưa làm được việc nào tốt đẹp cả mà khoa trương, lắm lời về sự tốt đẹp. Tất cả chúng ta chỉ nói lên những lời tốt đẹp, mà không làm những điều tốt đẹp. Do đó, cái xấu, cái khổ, cái thất vọng vẫn luôn luôn theo đuổi chúng ta như bóng với hình. Với ý nghĩa thứ tư này, trong Kinh diễn tả mục đích của Phật ra đời là “Nhập Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Nghĩa là, Đức Phật bước đi là bước đi bằng tuệ giác. Ngài đứng là cách đứng của tuệ giác. Ngài nằm là cách nằm của tuệ giác. Ngài ngồi là cách ngồi của tuệ giác. Ngài nhìn là cách nhìn của tuệ giác. Ngài nghe là cách nghe của tuệ giác. Ngài ngửi là cách ngửi của tuệ giác. Ngài thở là cách thở của tuệ giác. Bởi vì, tất cả những cái đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười, tiếp xúc bằng năng lượng tuệ giác đó, nên trong đời sống của Đức Phật không còn mảy may sai lầm.

Còn chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi bằng vọng niệm. Chúng ta nói, nhìn, nghe, ngửi, ăn bằng điên đảo tưởng. Chính cái điên đảo tưởng đó thúc đẩy chúng ta đi vào con đường khổ đau, con đường bất ổn. Bởi vậy, suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ, bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong đời sau khi nghe những lời Phật dạy, đem những lời Phật dạy đó vào trong đời sống của mình để thực tập, để sống và bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong đời đã có hạnh phúc, đã có an lạc.

Vua Trần Nhân Tông là một vị Vua anh minh của Việt Nam, đã cảm nhận được Phật pháp rất sâu xa. Cho nên, Vua đã phát biểu trước triều đình của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ như thế này: “Cảm Đức từ bi muôn kiếp nguyện cho thân cận!” Sau khi Vua Trần Nhân Tông học Phật, tu Phật, thấy được cái cao quý của Phật, muốn mình trở thành như một vị Phật. Do đó, Vua đã chọn cho mình một Pháp hiệu là: Điều Ngự Giác Hoàng. Giác Hoàng tức là nhà Vua giác ngộ. Điều Ngự là một trong những phẩm tính của Phật. Phẩm tính đó có khả năng thuần hóa hết thảy chúng sinh. Vua Trần Nhân Tông chọn cho mình phẩm hiệu là Điều Ngự Giác hoàng. Nghĩa là, nhà Vua giác ngộ thuần hóa nhân dân Việt nam trong tinh thần Phật giáo, trong tinh thần của đạo lý giác ngộ.

Tại sao Vua Trần Nhân Tông phải chọn Phật giáo làm một nền tảng giáo dục dân chúng sống đúng tinh thần Phật giáo. Vì, chỉ có tinh thần Phật giáo là tinh thần bao dung, tinh thần hỷ xả. Chỉ có xây dựng theo tinh thần Phật giáo mới làm cho gia đình bình ổn, làm cho tâm hồn của mỗi con người bình ổn. Từ tâm hồn của mỗi con người được bình ổn sẽ đưa đến gia đình bình ổn, và mỗi gia đình bình ổn sẽ đưa đến họ hàng bình ổn. Mỗi gia đình bình ổn sẽ đưa đến xóm làng bình ổn. Xóm làng bình ổn sẽ đưa đến từng phường, xã bình ổn. Từng phường xã bình ổn sẽ đưa đến quận huyện bình ổn. Nhiều quận, huyện bình ổn sẽ đưa đến phố thị bình ổn, tỉnh thị bình ổn. Nhiều tỉnh thị bình ổn sẽ đưa đến quốc gia bình ổn. Nhiều quốc gia bình ổn sẽ đưa đến thế giới bình ổn. Mỗi thế giới bình ổn sẽ đưa đến toàn thể vũ trụ sống trong một quy luật trật tự, hạnh phúc.


Như vậy, một trật tự lớn lao có thể bình ổn được khi tâm của mỗi chúng sinh bình ổn, nghĩa là phải khơi mở cho được Phật tính nơi họ. Mỗi người phải biết trở về sống với cái dễ thương nơi mình, cái dễ thương nơi mình chính là Phật tính, cái quý giá nhất nơi mình chính là Phật tính. Chúng ta trở về lại với cái cao đẹp nhất nơi chúng ta là Phật tính.


Phật tính nằm ở đâu? Phật tính nằm trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta thấy rằng, Đức Phật ra đời để khơi mở, chỉ cho chúng ta rằng trong tâm chúng ta có Phật tính. Ngài chỉ trong tâm quý vị có Phật tính, quý vị đã thấy chưa? Ai thấy rồi thì ngộ, ai chưa thấy thì mê. Quý vị thấy trong tâm quý vị có Phật tính thì quý vị ngộ, quý vị sẽ đi trên con đường sáng. Quý vị không thấy trong tâm quý vị có Phật tính thì quý vị mê. Mê thì quý vị đi vào con đường tối tăm, mù mịt và dù có hai mắt mà vẫn tối thui, có hai chân mà vẫn què, có hai tay mà vẫn không nắm được gì, có mũi mà không ngửi được, có tai mà vẫn không nghe được. Nhưng, nếu ta thấy trong tâm ta có Phật tính, ngộ được Phật tính đó thì ta có cơ hội đi lên, có cơ hội đi tới với hạnh phúc, an lạc, với giải thoát, với chân trời mở rộng.


Ý nghĩa thứ năm: Ngộ rồi chưa đủ, phải thể nhập với Phật tính đó và biểu hiện Phật tính đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta


Như vậy ngộ rồi thì phải nhập, mà nhập rồi thì phải xuất, nhập mà không xuất thì nghĩa nhập đó không thành. Bởi vì, nhập mà không xuất thì bí, cho nên nhập là phải xuất.


Trong vô lượng kiếp về trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng hành Bồ Tát đạo. Từ nơi Đức Phật Oai Âm Vương cách đây hàng tỉ tỉ kiếp, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng học với Đức Phật Oai Âm Vương. Đức Phật Oai Âm Vương đã từng khai, thị, ngộ, nhập, tri, kiến cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Và sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập được Phật tri kiến rồi, Ngài bắt đầu xuất ở nơi thế giới Ta Bà này. Xuất ở nơi thế giới Ta Bà này, Ngài vui với cái vui của chúng ta, buồn với cái buồn của chúng ta, Ngài nằm gai nếm mật với chúng ta. Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong mười phương thế giới, xuất hiện trong cõi Ta Bà này là Ngài bắt đầu đi con đường của Thánh đạo, con đường Bồ Tát để đưa mình và hết thảy chúng sinh đi về với con đường giác ngộ.

Tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni là ai? Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà trong Kinh Pháp Hoa đã ghi lại chính là Bồ Tát Thường Bất Khinh. Bồ tát Thường Bất Khinh là một vị Bồ Tát không dám khinh ai cả và là một vị Bồ tát chuyên thực hành hạnh không dám khinh ai cả. Vì sao bồ Tát Thường Bất Khinh là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài không dám khinh ai cả? Bởi vì, Ngài thấy rõ chúng sinh dù tầm thường đến mức nào đi nữa, họ cũng có cái cao quý của họ. Sở dĩ họ tầm thường là vì họ không gặp được thầy, không gặp được bạn, không gặp được người cha, người mẹ, người anh, người chị dễ thương. Do đó, cái tầm thường mới lem ố ra trong đời sống của họ. Giá như những chúng sinh tầm thường đó mà gặp được thầy hiền, bạn tốt, gặp người cha dễ thương, người mẹ dễ thương, người anh, người chị dễ thương, thì nhất định sớm muộn gì họ cũng dễ thương thôi. Chúng sinh, tầm thường như vậy là vì họ sinh ra trong xã hội gặp vị vua, quan không dễ thương, cho nên, lâu ngày cái không dễ thương của ông vua, ông quan làm lấm lem họ. Nếu họ có phước gặp được vị vua dễ thương, vị quan dễ thương, vị minh quân dễ thương, vị minh chúa... thì người dân đó lâu ngày cũng trở thành hiền thiện, quý báu.

Bồ tát Thường Bất Khinh thấy rõ như thế và yêu đời như thế. Cho nên, Bồ tát Thường Bất Khinh thấy một người tầm thường, Ngài cũng không thất vọng. Ngài thấy một người tầm thường Ngài cũng đứng ở xa kính lễ và Ngài nói rằng: “ Tôi không dám khinh các Người, tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ đi trên con đường Thánh đạo, các Ngài sẽ đi trên con đường Bồ Tát đạo, các Ngài tương lai sẽ làm Phật”. Tôi không dám khinh các Ngài, lời nói cao đẹp đó dù bị đôi đá, dù bị nguyền rủa... Bồ Tát Thường Bất Khinh vẫn không hề nổi cơn giận dữ, vẫn không hề trễ nải nói lên những lời tốt đẹp đó. Quý vị có biết, Bồ Tát Thường Bất Khinh ở trong Kinh Pháp Hoa là ai không? Là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thể nhập được Phật tính rồi thì bây giờ Ngài phải xuất Phật tính ra, phải thể hiện Phật tính ra cho mọi người. Mà thể hiện Phật tính đó là tính không giận dữ. Đứng trước một nghịch cảnh, mình đem lời chúc tụng cho người, thế mà người không nhận lại còn thóa mạ, còn vác đá ném mình nữa, nhưng Ngài vẫn không giận dữ. Ngài vẫn thương người vác đá ném mình một cách chân tình: “ Tôi không dám khinh Người đâu, Người chưa biết thì vác đá ném tôi như vậy đó, nhưng mai mốt Người biết rồi, thì Người hết ném tôi thôi. Tôi không dám khinh quý vị đâu, tôi không dám giận quý vị đâu. Mặc dầu hôm nay, tôi biết quý vị nói xấu tôi đó, tìm cách hại tôi đó, tìm cách nhục mạ tôi đó, nhưng tôi không dám khinh quý vị đâu, tôi không giận quý vị đâu, tôi rất thương quý vị. Bởi vì, quý vị chưa hiểu tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải; quý vị chưa nhận ra tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải, nhưng, mai mốt quý vị nhận ra được sự thật rồi, khi đó không ai bảo quý vị phải thương tôi, mà quý vị vẫn thương như thường”.


Công trình tu học đó là công trình mà Đức phật Thích Ca Mâu Ni đã thực hành trải dài hàng thế kỷ. Bây giờ đây chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, có phải chúng ta làm lễ kỷ niệm suông không? Có phải chúng ta đến nơi lễ đài để lạy Phật, nhưng xong rồi chứng nào vẫn giữ tật nấy hay không? Nếu chúng ta đến nơi một lễ đài, để rồi chen nhau lạy, sau đó về nhà và chứng nào vẫn giữ tật nấy, xem người như rơm rác, thì thiết lập lễ đài để làm gì? Chúng ta phải thiết lập lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải xây dựng cho được lễ đài ngay trong đời sống của chúng ta, cái lễ đài đó mới thật sự quan trọng. Chúng ta đừng khờ khạo góp tiền hàng triệu bạc, hàng chục triệu bạc để rồi làm công việc dã tràng xe cát biển đông. Chúng ta đừng bỏ ra cả một đời người để làm một công việc như vậy. Chúng ta phải biến lễ đài thành lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta và lễ đài khi đã được thiết trí trong tâm hồn của chúng ta, thì lẽ đương nhiên chúng ta đi đâu, ở đâu, lúc nào, ngủ, thức đều có Phật cả.


Thưa quý vị! Tại sao Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thực hành Bồ Tát đạo, Ngài làm được những việc đó? Bởi vì, Ngài ngộ đ