Fratelli Tutti - Một sứ điệp liên tôn (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 600 | Cật nhập lần cuối: 12/18/2021 7:05:02 PM | RSS

1. Gặp gỡ và đối thoại liên tôn cho một thế giới đại đồng

Fratelli Tutti - Một sứ điệp liên tôn (1)Giáo hoàng đã mở đầu thông điệp của ngài với thánh Phanxicô thành Assisi. Chính vị thánh của tình huynh đệ, của sự giản dị và niềm vui này đã từng truyền cảm hứng cho Đức Giáo hoàng viết thông điệp Laudato Si’, nay lại thúc đẩy ngài viết Fratelli Tutti, thông điệp của “tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội” (FT 2) (1). Rồi để kết thúc thông điệp Đức Giáo hoàng đã đề cao nền tu đức và cuộc đời của Á Thánh Charles de Foucauld, người đã sống lý tưởng tận hiến cho Thiên Chúa bằng việc chấp nhận đến sống giữa những người nghèo khổ bị bỏ rơi trong lòng sa mạc Phi Châu. Chính khi “đồng hoá với anh chị em đồng loại bé nhỏ nhất này, cuối cùng ngài đã trở thành anh em của tất cả mọi người” (FT 287). Câu cuối của Fratelli Tutti là một lời nguyện diễn tả ao ước của Đức Giáo hoàng để lý tưởng biến thành người anh em đại đồng của Charles de Foucauld trở nên con đường nên thánh cho tất cả các Kitô hữu – “Xin Thiên Chúa khơi dậy ước nguyện này nơi mỗi người chúng ta. Amen” (FT 287).

Tuy nhiên, nếu để ý và quan sát kỹ, người đọc sẽ nhận ra có một tên tuổi, một nhân vật, đóng một vai trò khá quan trọng trong thông điệp này, như chính Đức Giáo hoàng đã thổ lộ ngay từ đầu thông điệp, "nếu khi soạn thảo Laudato Si' tôi đã tìm được nguồn cảm hứng từ người anh em của tôi là Đức Bartôlômêô, Thượng phụ Chính Thống giáo, người đã mạnh mẽ cổ võ cho việc bảo vệ thế giới tạo thành, thì lần này, tôi cảm thấy được khích lệ bởi vị Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb mà tôi đã gặp tại Abu Dhabi…" (FT 5).

Thật vậy để quảng diễn chủ đề chính và lớn, là tình huynh đệ phổ quát của toàn thể nhân loại, Fratelli Tutti tương đối đã trải rất dài và rộng trên nhiều lãnh vực và đề tài nhỏ khác nhau liên quan đến cuộc sống và định mệnh chung của con người trong thế giới hôm nay. Trong suốt chiều dài của thông điệp, rất nhiều lần đã xuất hiện các suy tư và tuyên bố chung của Đức Giáo hoàng với Đại Giáo Trưởng Ahmad Al-Tayyeb. Nói cách khác Đức Giáo hoàng đã để cho vị Đại Giáo Trưởng đồng hành với ngài trong những trăn trở lo âu cũng như trong các viễn cảnh hy vọng tương lai hướng đến một tình huynh đệ có tính cách đại đồng cho toàn thể nhân loại.

Ngay từ đầu thông điệp, khi dẫn nhập lý tưởng của tình huynh đệ không biên giới giữa con người, Đức Giáo hoàng đã đề cập đến Tài Liệu về Tình Huynh Đệ Nhân Loại cho việc Chung Sống và Hoà Bình Thế Giới mà ngài đã ký chung với Đại Giáo Trưởng Ahmad Al-Tayyeb tại Abu Dhabi ngày 4 tháng 2 năm 2019. (2) Đức Giáo hoàng cũng đã định hướng rõ ràng rằng Fratelli Tutti là sự khai triển những chủ đề quan trọng được đề cập trong văn kiện mà hai vị lãnh đạo tôn giáo đã cùng nhau ký kết (x. FT 5). Khi khẳng định tuyên bố chung này không đơn thuần là một văn bản ngoại giao nhưng là một suy tư phát sinh từ cuộc đối thoại và dựa trên một cam kết chung, Đức Giáo hoàng dùng chính ngôn ngữ của tài liệu để nhắc lại rằng Thiên Chúa “đã tạo dựng nhân loại, tất cả đều bình đẳng với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, đồng thời đã kêu gọi họ cùng chung sống với nhau như anh em” (FT 5).

Cùng với Đại Giáo Trưởng Ahmad Al-Tayyeb, Đức Giáo hoàng cũng đã quan sát và diễn tả trong Fratelli Tutti về sự phát triển không quân bình của nhân loại trong hệ thống toàn cầu hoá hôm nay. Sự bất quân bình này dường như đang dẫn thế giới về một tương lai yếu kém nhân bản và thiếu vắng tình người (x. FT 29). Hai ngài đã trân trọng những phát triển tích cực trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y tế, công nghiệp và phúc lợi, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên hai ngài đã nhấn mạnh rằng, song song với các tiến bộ lớn lao, xuất hiện tình trạng suy thoái đạo đức, ảnh hưởng đến các hoạt động quốc tế và làm cho những giá trị tinh thần cùng ý thức trách nhiệm bị suy yếu. Hai ngài đã đề cập đến sự bùng phát của các căng thẳng quốc tế, sự tăng cường chế tạo vũ khí đạn dược, trong bối cảnh thế giới đầy tràn những bất ổn, thất vọng, lo sợ cho tương lai, hơn nữa còn bị điều khiển bởi những lợi ích kinh tế thiển cận. Hai ngài đã nhận diện những cuộc khủng hoảng chính trị nổi bật, những bất công và tình trạng thiếu công bằng trong việc phân phối nguồn tài nguyên thiên nhiên. Những khủng hoảng này đã khiến hàng triệu trẻ em chết vì suy dinh duỡng và nghèo đói. Theo hai ngài, sự thụ động quốc tế trước tình trạng này là “một sự im lặng không thể chấp nhận được” (FT 29).

Là đại diện cho Kitô giáo, một tôn giáo cho dầu có nguồn gốc từ phương Đông, (3) đã đâm rễ sâu và ảnh hưởng rõ nét trên đời sống và văn hoá của phương Tây, Đức Phanxicô muốn sự gặp gỡ của ngài với Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb một cách nào đó xác nhận mối quan hệ không thể chia lìa giữa hai nền văn hoá Đông và Tây. Đang lúc có nhiều khai thác những khác biệt vì lợi ích chính trị hay thương mại, hai ngài cổ võ việc trao đổi và đối thoại giữa Đông và Tây, hướng đến sự phong phú cho văn hoá và cuộc sống chung. Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô và Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb,

"phương Tây có thể khám phá nơi văn minh phương Đông những phương dược cho một số căn bệnh tâm linh và tôn giáo gây ra bởi sự thống trị của chủ nghĩa duy vật. Và phương Đông có thể tìm thấy nơi phương Tây nhiều yếu tố có thể giúp giải thoát khỏi sự yếu nhược, chia rẽ, xung đột cùng với sự yếu kém về khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Cần phải quan tâm đến các khác biệt về tôn giáo, văn hóa và lịch sử, vốn là thành tố cốt yếu trong việc định hình nhân cách, văn hóa, và văn minh của phương Đông. Cũng cần phải củng cố các quyền căn bản của con người, nhằm góp phần bảo đảm một đời sống có phẩm giá cho mọi người ở phương Đông và phương Tây, tránh những chính sách với chuẩn mực nước đôi" (FT 136).

Trong khi quan sát và suy tư về cuộc sống chung trong khung cảnh của một nhân loại càng lúc càng tiến lại gần nhau, Fratelli Tutti đã cảnh báo các hình thức bất khoan dung cực đoan đang tác hại các mối tương quan giữa các cá nhân, các nhóm và các dân tộc. Thực vậy, sự cuồng tín phát xuất từ não trạng hẹp hòi cùng sự phân hóa xã hội và văn hóa đã là nguyên nhân cho những xung đột dẫn đến chiến tranh cho thế giới hôm nay. Trong bối cảnh này, Fratelli Tutti đã đề cao “lòng bác ái chính trị” (4). Đây là một từ ngữ và ý niệm tương đối mới và độc sáng xuất hiện trong thông điệp, được dùng để chuyển tải một phương dược chữa lành các xung đột chính trị và giúp định hướng cho các chính sách chung. Lòng bác ái chính trị đòi hỏi chính trị gia đi bước trước để các tiếng nói khác nhau được lắng nghe. Lòng bác ái chính trị cũng giúp mọi người dấn thân sống và quảng bá giá trị của việc tôn trọng người khác, chấp nhận sự khác biệt và đặt phẩm giá con người vượt trên tất cả, ngay cả lỗi lầm và tội phạm (x. FT 191). Đây cũng là quan điểm chung của Đức Giáo hoàng và Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb. Hai ngài đã đồng thanh kêu gọi “các nhà hoạch định chính sách quốc tế và kinh tế thế giới, hãy tích cực truyền bá văn hóa khoan dung và chung sống hòa bình; hãy can thiệp sớm nhất có thể để ngăn chặn việc đổ máu người vô tội”. (5)

Các suy tư chung của hai vị lãnh đạo tôn giáo có thể nói được là đã bàng bạc trong khắp thông điệp, nhưng đặc biệt cô đọng lại để đi đến kết luận trong một lời kêu gọi chung khẩn khoản gởi đến toàn thế giới, nơi chương cuối cùng của thông điệp với chủ đề Các Tôn Giáo Phục Vụ Tình Huynh Đệ trong Thế Giới Chúng Ta. Nói cách khác chương tám của Fratelli Tutti được xem như phần chính cho nỗ lực gặp gỡ và đối thoại tôn giáo hướng đến viễn cảnh huynh đệ đại đồng của nhân loại trong một nền hoà bình đích thực. Nền tảng chính cho cuộc đối thoại này là niềm xác tín rằng các tôn giáo đích thực đều muốn góp phần xây dựng tình huynh đệ và bảo vệ công lý xã hội, khởi đi từ sự tôn trọng mỗi con người như một thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi làm con của Ngài. Trong nhãn quan này, những con người của lòng tín ngưỡng đối thoại với nhau không chỉ để tỏ ra biết ngoại giao, hòa nhã hay khoan dung, nhưng họ tìm đến với nhau trong sự hài hoà gắn bó của niềm tin, để chia sẻ các giá trị và kinh nghiệm tâm linh và đạo đức trong tinh thần mến yêu và tôn trọng sự thật (x. FT 271).

Để làm nổi bật nền tảng tối hậu của tín ngưỡng trong việc kiến tạo hoà bình và tình huynh đệ đại đồng, Fratelli Tutti đã khẳng quyết rằng “chỉ với ý thức chúng ta là con chứ không phải là những trẻ mồ côi, thì chúng ta mới có thể sống hòa thuận với nhau” (FT 272). Tín ngưỡng giúp con người nhìn nhận nhau là anh chị em vì cùng một người cha là Đấng Tạo Thành. Niềm xác tín này hết sức quan trọng vì nó quy tụ tất cả mọi người của lòng tín ngưỡng bằng giây liên kết của căn tính bất khả xâm phạm là phẩm giá siêu việt của con người trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa. Một khi con người chối bỏ hay muốn thay thế địa vị của Thiên Chúa thì điều đương nhiên là họ cũng phủ nhận giá trị siêu việt nơi chính mình và đồng loại. Sự bất khoan dung của chủ trương vô thần dưới bất cứ hình thức nào, khi từ chối Thiên Chúa là cha chung, đều là sự khởi đầu cho bạo quyền thống trị bởi vì nó đặt lợi ích của giai cấp, đảng phái, tập thể hay quốc gia vào thế chống đối lẫn nhau. Trước vấn nạn này cùng với Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb, Đức Giáo hoàng quan sát

"… trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến thế giới ngày nay khủng hoảng là chuyện lương tâm con người trở nên chai cứng, là việc xa rời các giá trị tôn giáo và sự thắng thế của chủ nghĩa cá nhân cùng các triết lý duy vật, chủ trương thần thánh hóa con người, cũng như đưa những giá trị thế trần và vật chất lên vị trí những nguyên lý tối cao siêu việt". (6)

Thật vậy, khi các kinh nghiệm và suy tư khôn ngoan của tín ngưỡng phát sinh từ các truyền thống tôn giáo lâu đời bị xem thường và gạt ra ngoài lề xã hội, phẩm giá và quyền lợi đích thực của mỗi nhân vị cũng sẽ không được tôn trọng. Thông điệp xác định rằng con người là chủ thể của các quyền lợi không ai được phép xâm phạm, thậm chí cả khi người ta nhân danh đa số hay nhân danh các ý thức hệ. Lòng tín ngưỡng chân thật và nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa mang lại lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên lịch sử và thực tế cho thấy tín ngưỡng nhiều lần đã bị các ý thức hệ lợi dụng hoặc thậm chí niềm tin tôn giáo biến thành một công cụ của ý thức hệ để đối đầu với nhau trong lòng tôn giáo hay đối đầu với các tôn giáo khác dưới hình thức các cuộc “thánh chiến”. (7) Theo Fratelli Tutti điều xảy ra bởi vì

"khi nhân danh một ý thức hệ, là người ta có ý loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi xã hội, rốt cuộc người ta sẽ đi đến chỗ tôn thờ ngẫu tượng, và chẳng bao lâu sẽ lạc đường, đồng thời phẩm giá của họ sẽ bị chà đạp và quyền lợi của họ sẽ bị xâm phạm. Quý vị đã quá rõ sự phủ nhận tự do của lương tâm và tự do tôn giáo đã gây ra biết bao đau khổ, và những vết thương này khiến cho nhân loại trở nên cùng khốn vì thiếu niềm hy vọng và những lý tưởng dẫn đường" (FT 274).

Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb và Đức Giáo hoàng đã đạt đến sự đồng thuận rằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong chân thành và khiêm nhu nơi các tôn giáo không chấp nhận kỳ thị, hận thù và bạo lực, nhưng đem lại sự tôn trọng tính thánh thiêng của sự sống, sự tôn trọng phẩm giá và tự do của tha nhân, và sự dấn thân hết tình lo cho hạnh phúc của mọi người. Đáng buồn là lịch sử của nhân loại không thiếu những lần tín ngưỡng biến thành sự cuồng tín bị lợi dụng cho các mục đích bất nhân và bạo lực. Trong thế giới hiện đại, hiện Hồi giáo đang bị lạm dụng bởi các thế lực khủng bố tạo nên sự chết chóc và tàn phá nhiều nơi trên thế giới. Đứng trước nạn khủng bố mỗi lúc một gia tăng, hai nhà lãnh đạo tôn giáo đã đồng thanh tuyên bố hết sức mạnh mẽ rằng:

"chủ nghĩa khủng bố là đáng bị ghét bỏ, vì nó đe dọa sự an toàn của con người - dù ở Đông hay Tây, Nam hay Bắc - và gieo rắc kinh hoàng, sợ hãi và bi quan, nhưng những điều này không phát xuất từ tôn giáo, ngay cả khi các kẻ khủng bố có lợi dụng danh nghĩa tôn giáo. Đúng hơn, chính do việc tích tụ dần những diễn giải sai lạc về các bản văn tôn giáo, và do hậu quả của những chính sách gây ra đói nghèo, bất công, áp bức và ngạo mạn. Bởi đó cần phải ngăn chặn sự hậu thuẫn của những phong trào khủng bố, bằng cách cắt nguồn cung cấp tài chánh, vũ khí, kế hoạch hoặc sự tuyên truyền biện minh và che đậy của truyền thông, đồng thời phải coi tất cả những điều này như những tội ác quốc tế đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Cần phải lên án nạn khủng bố như thế dưới mọi hình thái và cách thức biểu lộ của nó..." (8)

Đối diện với một khung cảnh nhiều khi rất ảm đạm của một thế giới đang bị tàn phá vì bạo lực khủng bố nhân danh sự cuồng tín, hai nhà lãnh đạo tôn giáo đã tự nhận trách nhiệm, khi công nhận nhiều lúc “bạo lực mang tính bảo thủ cực đoan được dung dưỡng trong ít nhiều nhóm, thuộc bất cứ tôn giáo nào, bởi sự bất cẩn của những người lãnh đạo” (FT 284). Tuy nhiên, với niềm xác tín rằng huấn lệnh hòa bình được khắc sâu trong các truyền thống tôn giáo, Fratelli Tutti đã trở thành một lời kêu gọi được gởi đến các vị lãnh đạo tôn giáo trên toàn thế giới:

"Trên cương vị những nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được mời gọi trở thành ‘những người đối thoại' thực sự, để hợp tác trong việc kiến tạo hòa bình, không phải như những kẻ môi giới, nhưng như những người hòa giải đích thực. Những kẻ môi giới tìm cách cho mọi người được hưởng phần giảm giá, nhưng rốt cuộc chính những kẻ môi giới thu được những món lợi lớn hơn nhiều. Trái lại, các nhà hòa giải là những người không mưu cầu cho mình bất cứ điều gì, nhưng quảng đại bỏ công sức ra vận động và chỉ biết tìm mối lợi duy nhất là hòa bình. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên nghệ nhân kiến tạo hòa bình, bằng cách hợp nhất chứ không chia rẽ, dập tắt hận thù chứ không nuôi dưỡng, mở ra những nẻo đường đối thoại chứ không xây thêm những bức tường ngăn cách…" (FT 284).

2. Tinh thần đối thoại của Vatican II trong Fratelli Tutti

Có lẽ sẽ rất thú vị và đồng thời cũng giúp mở rộng những chiều kích khác cho dòng suy tư, nếu người đọc nhận ra sự hòa điệu tuy kín đáo nhưng thật khắng khít giữa chương tám của Fratelli Tutti và giáo huấn mà các văn kiện quan trọng của Công Đồng Vatican II đã gởi đến con người và thế giới hiện đại liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Khi nhìn thấy Giáo hội cũng như tôn giáo nhiều lúc bị bỏ sang một bên, khi “trong những cuộc tranh luận công khai, chỉ những người quyền thế và các nhà khoa học mới được lên tiếng” (FT 275), Fratelli Tutti đã dùng giáo huấn và lập trường của Gaudium et Spes, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, để lập lại thế quân bình trong quan hệ giữa Giáo Hội nói riêng và tôn giáo nói chung với xã hội chính trị.

Lấy kinh nghiệm từ chính lịch sử của Giáo Hội, các nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã xác nhận sự quan trọng của mối tương quan giữa cộng đoàn chính trị và tôn giáo. Sự trộn lẫn giữa thần quyền và thế quyền trong lịch sử cũng như trong hiện tại nhiều khi đã gây ra những lạm dụng và xâm phạm không cần thiết và nguy hiểm. Ngược lại sự chia cách và đối nghịch của hai thực tại này trong nhiều trường hợp đã đem đến những mất mát đáng tiếc cho xã hội và thế giới. Điều cần thiết là phải có sự phân biệt minh bạch giữa bổn phận trần thế trong tư cách là công dân và những hành động của lòng tín ngưỡng nơi một con người. Cũng vậy, cộng đoàn tôn giáo không được để bị đồng hoá với một cộng đoàn chính trị hay cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào, để tôn giáo nói chung và Giáo hội nói riêng, luôn là dấu chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người.

Cộng đoàn chính trị và cộng đoàn tín ngưỡng đều có lãnh vực riêng của mình, độc lập và tự trị. Cho dầu dưới danh hiệu khác nhau, cả hai cùng có chung một mục đích là phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá nhân và xã hội. Nếu hai cộng đoàn tự trị này duy trì được sự cộng tác lành mạnh, việc phục vụ lợi ích của con người càng trở nên hữu hiệu hơn. Bởi vì con người là một hữu thể vượt ra khỏi nhãn giới trần gian. Tuy sống trong lịch sử chóng qua, con người vẫn mang một sứ mệnh trường cửu. Với mầu nhiệm Nhập Thể, Kitô giáo luôn nhìn nhận các thực tại trần thế và những thực tại siêu phàm nơi con người liên kết mật thiết với nhau.

Trong chiều kích của một cộng đoàn đức tin, Giáo hội cũng xử dụng các thực tại trần thế tùy mức độ mà sứ mệnh riêng của mình đòi hỏi, nhưng không bao giờ cậy nhờ vào những đặc ân của thế quyền. Trung thành theo sát Phúc Âm và thi hành sứ mệnh của mình trong thế giới, Giáo hội phải cổ võ và nâng cao bất cứ điều gì là chân, thiện, mỹ trong cộng đoàn nhân loại. Để chu toàn sứ mệnh của mình giữa và cho nhân loại, bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào Giáo hội cũng phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình. Giáo hội cũng phải được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lãnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục đích trên, Giáo Hội xử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Phúc Âm và lợi ích của mọi người tùy theo thời đại và hoàn cảnh khác nhau. Làm như thế tức là Giáo hội xây dựng hòa bình cho con người để làm vinh danh Thiên Chúa (x. GS 76).

Lập trường và giáo huấn của Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes) được xác định và cập nhật hoá cho hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội nói riêng cũng như các cộng đoàn tín ngưỡng khác nói chung, khi thông điệp Fratelli Tutti một lần nữa khẳng quyết:

"… trong khi tôn trọng sự tự trị của sinh hoạt chính trị, Hội Thánh không giới hạn sứ mạng của mình chỉ ở lĩnh vực riêng tư. Ngược lại, Hội Thánh không thể và không được đứng bên lề trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, cũng không được sao nhãng việc khơi dậy năng lực tâm linh có thể góp phần tô điểm làm xã hội thêm xinh tươi… (C)ác giáo sĩ không nên tham gia vào chính trị đảng phái vốn là lĩnh vực riêng của hàng giáo dân, nhưng các giáo sĩ cũng không thể khước từ chiều kích chính trị của cuộc hiện sinh, vốn bao hàm việc không ngừng chú ý đến thiện ích chung và quan tâm đến việc phát triển con người toàn diện. Hội Thánh có vai trò xã hội vượt khỏi các hoạt động bác ái và giáo dục của mình, nhằm thúc đẩy sự thăng tiến của con người và của tình huynh đệ phổ quát… Hội Thánh không có ý tranh giành quyền lực trần thế, nhưng tự cống hiến như một gia đình giữa các gia đình, ấy là gia đình Hội Thánh, sẵn sàng làm chứng cho thế giới hôm nay về lòng tin, về niềm hy vọng và về tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với những ai được Người yêu thương cách riêng…" (FT 276)

Trong nhãn quan này, người đọc có thể nhận thấy một ý nguyện rất rõ của Đức Giáo hoàng Phanxicô khi thi hành quyền giáo huấn, đặc biệt trong Fratelli Tutti, là làm nỗi bật lại vai trò của Công Đồng Vatican II như một Lễ Hiện Xuống Mới, theo cách nói của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, (9) cho đời sống Giáo hội. Thật vậy, trước Công Đồng Vatican II, Giáo hội được hiểu là một societas perfecta - một xã hội hoàn hảo với mọi vẻ hào nhoáng trỗi vượt. (10) Để bảo vệ cho vẻ huy hoàng và sự ưu việt này cần có một cơ chế và cấu trúc đóng kín ngăn không cho bất cứ điều gì bên ngoài có thể ảnh hưởng hay xâm phạm tới. Với tâm thức phòng thủ tự vệ này, (11) thế giới được nhìn, hay nói đúng hơn bị kết án, là một nơi của bóng tối và đầy dẫy sự dữ. Cơ cấu đóng kín này nói lên hình ảnh của cộng đoàn các môn đệ trước khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Theo Phúc Âm thánh Gioan, vào buổi sáng Phục Sinh “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì… sợ người Do Thái”. Trong bối cảnh trốn lánh sợ hãi này, Đức Kitô Phục Sinh đã vượt qua các bức tường và cánh cửa đóng kín để đến ban bình an và ơn Thánh Thần cho các môn đệ (x. Ga 20,19-22). Và rồi đến ngày lễ Ngũ Tuần với biến cố Hiện Xuống, căn nhà Giáo hội đã bắt đầu mở tung mọi cửa để lời rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô vang ra cho toàn thế giới, để cho mọi nước mọi dân “đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!" (Cv 2, 11). Fratelli Tutti lập lại ước muốn mở cửa đối thoại với thế giới của Thánh Công Đồng Vatican II khi Đức Giáo hoàng khẳng định Giáo hội của Đức Kitô phải tiếp tục "là một ngôi nhà luôn mở rộng cửa… chúng ta muốn là một Hội Thánh phục vụ, biết ra khỏi nhà và ra khỏi nơi phụng tự của mình, ra khỏi phòng thánh của mình, hầu có thể đồng hành với đời, nâng đỡ niềm hy vọng, làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất, xây dựng những cây cầu, phá đổ các bức tường, gieo những hạt giống hòa giải" (FT 276)

Khi mở rộng cửa bước ra khỏi nhà, những người tin vào Đức Kitô sẽ gặp đủ mọi hạng người với những xác tín về giá trị linh thánh khác nhau, cũng như họ phải giao tiếp với anh chị em đồng loại đang thực hành tín ngưỡng nơi các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Fratelli Tutti xác định lại ơn gọi của Giáo hội là "thâm nhập mọi thực tại và đã hiện diện suốt bao thế kỷ ở khắp nơi trên thế giới, đó chính là ý nghĩa của từ “công giáo”. Thế nên, từ kinh nghiệm tự thân về ân sủng và tội lỗi, Hội thánh có thể thấu hiểu vẻ đẹp của lời mời gọi sống tình yêu phổ quát. Thực vậy, tất cả những gì thuộc về con người đều có liên quan đến chúng ta… Ở bất cứ nơi đâu, khi hội đồng các dân các nước họp nhau lại, để xác lập về quyền lợi và nghĩa vụ của con người, thì chúng ta luôn lấy làm vinh dự được phép cùng tham gia với họ” (FT 278).

Nhưng để hiểu được chiều kích của việc gặp gỡ của những người có tín ngưỡng khác nhau trong việc đối thoại và hợp tác tôn giáo, trước hết phải đề cập đến quyền tự do tôn giáo. Trong cái nhìn này, chương tám của Fratelli Tutti có thể được xem như một giải thích và nhấn mạnh cho giáo huấn của Công Đồng Vatican II về “quyền tự do của cá nhân và đoàn thể trong lãnh vực tôn giáo là một quyền tự do xã hội và dân sự” (12) và về “liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo”. (13)

Khi đề cập đến quyền tự do tôn giáo, Fratelli Tutti lập luận rằng “là Kitô hữu, chúng ta đòi hỏi cho mình phải được hưởng tự do trong những quốc gia ở đó Kitô hữu là thiểu số, như chính chúng ta tạo thuận lợi cho những người ngoài Kitô giáo tại những nơi họ là thiểu số cũng được hưởng tự do” (FT 279). Có thể nói được, đại diện cho Huấn Quyền của Giáo hội Đức Giáo hoàng đã chọn cách tiếp cận và đặt vấn đề tự do tôn giáo một cách tương đối mới và độc sáng theo đúng theo tinh thần của Dignitatis Humanae, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo của Vatican II.

Thực ra, cách đặt vấn đề và lời kêu gọi tự do tôn giáo của Fratelli Tutti, cũng như giáo huấn của Dignitatis Humanae, có lẽ đã không tạo sự suy nghĩ nào, nói cách khác đã không gây phản cảm nơi các Kitô hữu đang thực hành đức tin tại Việt Nam. Giống như các cộng đoàn Kitô thiểu số khác, đối với người Kitô hữu Việt, khi nói đến quyền tự do tôn giáo là chúng ta đòi hỏi chính quyền (vô thần) và xã hội (đa tôn giáo) phải cho phép Kitô giáo (thiểu số) được hưởng các quyền thực hành và quảng bá tôn giáo của mình cách tự do và công bình. Tuy nhiên ở các xã hội mà đa số công dân là Kitô hữu hay Kitô giáo đã là quốc giáo thì tự do tôn giáo có nghĩa rằng người Kitô hữu trong tinh thần công bình và bác ái phải tôn trọng quyền tự do lương tâm của tất cả mọi con người, kể cả những kẻ vô thần, và phải để các tín đồ các tôn giáo ngoài Kitô hưởng đầy đủ quyền lợi và tự do để tin và sống tín ngưỡng của mình.

Nguyên tắc và những đòi hỏi này đã là nguyên nhân và bối cảnh cho các cuộc tranh luận rất dài và căng thẳng trước khi Dignitatis Humanae được công nhận là văn bản của Huấn Quyền tại Công Đồng Vatican II. (14) Bản văn của Dignitatis Humanae nguyên thuỷ là chương cuối (chương 5) của Ut Sint Unum, văn kiện về Hiệp nhất Kitô giáo, và lược đồ của văn kiện đã được đưa ra để các Nghị Phụ thảo luận ngay trong kỳ họp đầu tiên của Công Đồng, từ ngày 26 tháng 11năm 1962. Tuy nhiên, sau đó chương 5 của Ut Sint Unum đã được tách ra thành một lược đồ độc lập cho chủ đề tự do tôn giáo và đã được các nghị phụ thảo luận riêng biệt từ ngày 23 tháng 09 năm 1964 trong kỳ họp thứ 4. Cho mãi đến ngày 07 tháng 12 năm 1965, tức một ngày trước khi Công Đồng bế mạc, Dignitatis Humanae mới được bỏ phiếu chấp nhận với 2308 phiếu thuận và 70 phiếu chống. (15)

Thật sự Công Đồng Vatican II đã được triệu tập trong bối cảnh toàn thể nhân loại, cho dầu đã gần 20 năm sau ngày chiến tranh chấm dứt, vẫn chưa hết bàng hoàng về cơn ác mộng vừa trải qua trong Đệ Nhị Thế Chiến. Lo lắng cho sự tồn vong của nhân loại và để chắc chắn con người trên trái đất không còn phải chứng kiến sự chết chóc và tàn phá khủng khiếp của một thế chiến mới, Liên Hiệp Quốc đã được thành hình ngay sau các hiệp ước kết thúc chiến tranh được ký kết. Để bảo đảm cho nhân phẩm và sự sống của con người không còn bị khinh thường chà đạp, và để cho “mọi con người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi” (Điều 1), bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc đã được ký kết và ban hành ngày 10 tháng 12 năm 1948, trong đó quyền tự do lượng tâm và tôn giáo được qui định:

"Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng" (Đ.16).

Nhắc lại điều 16 của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc để thấy rằng Dignitatis Humanae thực ra đã không là một văn kiện quá mới mẻ hay có tính cách mạng về quyền tự do của con người trong bối cảnh của lịch sử và thế giới. Các nghị phụ của Vatican II đã không tuyên bố điều gì mới hơn là xác định quyền tự do tôn giáo đã được Liên Hiệp Quốc công bố và bảo vệ. Thực vậy, sau khi quan sát rằng con người thời đại càng lúc càng ý thức mãnh liệt và đòi hỏi được hưởng quyền tự quyết và tự do chọn trách nhiệm, không bị chi phối bởi một áp lực nào, Dignitatis Humanae nhìn nhận:

"con người có quyền tự do tôn giáo. Quyền tự do này hệ tại con người không bị chi phối vì sự cưỡng bách của cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng. Hơn nữa, Thánh Công Đồng còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên phẩm giá con người, một phẩm giá đúng như lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được. Quyền tự do tôn giáo của con người trong cơ cấu pháp lý của xã hội phải được chấp nhận là một quyền lợi dân sự" (DH 2).

Đối với người tín hữu Việt, giáo huấn này của Dignitatis Humanae xem ra rất đơn thuần và minh bạch. Tại sao cần thời gian và những cuộc tranh luận lâu dài trước khi văn kiện được chấp thuận để trở thành giáo huấn chính thức của Giáo hội? Và tại sao mãi cho đến hôm nay, gần 60 năm kể từ khi văn kiện được ban hành, cũng vẫn có một số người tự nhận mình là Kitô hữu, nhân danh những giá trị bảo thủ và truyền thống không chấp nhận giáo huấn của Vatican II và một trong những lý do chính là tuyên bố của Giáo hội về quyền tự do căn bản này của con người? (16) Để có thể lý giải một phần cho tính cách phức tạp của vấn đề, trước hết phải đề cập đến tâm thức làm chủ và điều khiển cuộc tranh luận của văn kiện đến từ những miền đất mà người tín hữu gần như không có kinh nghiệm về một tín ngưỡng ngoài Kitô giáo. Cổ động và bênh vực cho quyền tự do tôn giáo đã không là chuyện đương nhiên cho nhiều quốc gia đã có nền văn hoá Kitô giáo lâu đời, bởi vì điều này bó buộc người Kitô hữu phải chấp nhận cho các quan điểm về tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhiều lúc đối nghịch lại với Kitô giáo, có quyền hiện hữu và phát triển trong xã hội mang bản sắc Kitô giáo. Thêm vào đó là các tiếng nói của các thừa sai truyền giáo đến từ các giáo hội địa phương đang còn là thuộc địa hoặc là cựu thuộc địa của các nước Âu Châu, lo lắng quan ngại cho công cuộc truyền giáo nếu Giáo hội công nhận tự do tôn giáo và sự bình đẳng cho các tín ngưỡng. (17)

Đang khi các nghị phụ tại Công Đồng, ngay giữa lòng Giáo hội, còn đang phải đối mặt với nhiều khúc mắc và đang cố gắng tìm ra câu trả lời cho những vấn nạn này thì cả thế giới, hay nói chính xác, một nửa thế giới ngoài Kitô giáo đang chờ đợi và quan sát xem người Kitô hữu có minh bạch và thành thật trong vấn đề này không. Có phải người Kitô chỉ đòi hỏi quyền tự do tôn giáo nơi các xã hội vô thần hay nơi nào người Kitô hữu là thiểu số, ngược lại xem thường hay từ chối khi người Kitô hữu ở thế mạnh hay đa số. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần các nghị phụ cuối cùng đã đạt sự đồng thuận và hoàn tất Dignitatis Humanae, Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, được xem là một văn kiện độc sáng của lịch sử Giáo hội trong thể loại này. (18) Tuyên ngôn này trước hết nói lên việc chọn lựa tinh thần mục vụ và đối thoại của Công Đồng Vatican II. (19) Công Đồng không đi ngược lại hay bỏ quên nhiệm vụ chính được giao phó cho Giáo hội là bảo vệ và rao giảng chân lý về Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất của nhân loại, nhưng Giáo hội đồng thời cũng bảo vệ quyền tự do lương tâm của mỗi con người trong cách thế họ chọn lựa chân lý và phương thế đạt đến chân lý đó. Thật vậy, trong niềm tin Kitô giáo, lương tâm chính là cung thánh bất khả xâm phạm của mỗi con người. (20) Khi các ý thực hệ vô thần và độc tài luôn tìm cách xâm phạm hay cấm cách ngăn trở lương tâm con người trong ao ước và nỗ lực tìm kiếm chân lý, Giáo hội đã thẳng thắn và can đảm bảo vệ để con người “có quyền tìm kiếm chân lý trong lãnh vực tôn giáo, để họ dùng những phương tiện thích đáng mà phán đoán đúng đắn và chân thật theo lương tâm một cách khôn ngoan” (DH 3). Trong ý hướng này, Dignitatis Humanae đã kêu gọi mọi người "phải trung thành tuân theo lương tâm ấy trong mọi hoạt động của mình hầu tiến tới Thiên Chúa là cùng đích. Vì vậy, không ai bị cưỡng bách hành động trái với lương tâm, cũng như không ai bị ngăn cấm hành động theo tiếng lương tâm nhất là trong lãnh vực tôn giáo. Vì việc hành đạo, tự bản chất, trước hết ở tại những hành vi ý chí và tự do bên trong, hướng con người thẳng tới Thiên Chúa. Những hành vi này không thể bị một quyền bính thuần nhân loại nào ép buộc hay ngăn cản…" (DH 3)

Với lập trường trong sáng và vững chắc này, Dignatis Humanae đã đánh tan mọi nghi ngờ của thế giới ngoài Kitô giáo cho rằng cộng đoàn Kitô chỉ cổ động đòi hỏi tự do nơi nào Kitô giáo là thiểu sổ, và thường dững dưng im lặng khi nơi đó Kitô giáo là đa số. Tuy nhiên, hoàn cảnh thực tế hôm nay nhiều lúc xem ra đã đặt người Kitô hữu, đặc biệt tại các xã hội Tây Phương, ở một vị trí và cách suy nghĩ khác. Trong khi các tín đồ thuộc các tôn giáo khác được bảo đảm mọi quyền tự do cũng như được nâng đỡ để thực hành đức tin tại các nước có nền văn minh Kitô giáo, thì ngược lại người Kitô hữu bị cấm cách hay thậm chí bị bách hại tại các nước và các xã hội nơi các tôn giáo khác ảnh hưởng hoặc lãnh đạo. Cho dầu bất cứ điều gì đã và đang xảy ra, Fratelli Tutti vẫn đứng vững với lập trường và giáo huấn của Vatican II về quyền tự do tôn giáo như nền tảng cho một tình huynh đệ đại đồng và một nền hoà bình đích thực:

"Trên hành trình tiến tới tình huynh đệ và hòa bình, không được phép bỏ quên một quyền căn bản của con người. Đó là quyền tự do tôn giáo cho các tín đồ của mọi tôn giáo. Quyền tự do này cho thấy chúng ta có thể xây dựng một sự hòa thuận tốt đẹp giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nó cũng chứng thực rằng những gì chúng ta có chung với nhau thì rất nhiều và quan trọng đến nỗi chúng ta có thể tìm ra phương cách chung sống yên hàn, trật tự và hòa bình, qua việc chấp nhận những khác biệt của nhau và vui mừng được là anh chị em với nhau, vì chúng ta đều là con của một Thiên Chúa duy nhất" (FT 279).

Thật vậy, người tín hữu Kitô phải tin tưởng tuyết đối và luôn lấy sức mạnh từ Tin Mừng để tiếp cận với anh chị em đồng loại trong các tín ngưỡng và tôn giáo khác với tinh thần cởi mở và đối thoại. Theo Fratelli Tutti, trong lịch sử cũng như hiện tại, các mâu thuẫn khác biệt tôn giáo không bao giờ tạo nên bế tắc nơi tâm trí các Kitô hữu, bởi vì luôn luôn có thể

"tạo nên một tiến trình hòa bình giữa các tôn giáo. Xuất phát điểm của tiến trình đó phải là cách nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa không thấy bằng đôi mắt nhưng bằng trái tim của Ngài. Và Thiên Chúa yêu hết mọi người, bằng một tình yêu duy nhất, bất kể họ thuộc tôn giáo nào. Dẫu họ có là vô thần, thì Ngài cũng vẫn yêu như vậy. Đến ngày tận thế, khi có đủ ánh sáng để nhìn xem mọi sự trên trần thế này đúng như chúng là, ta sẽ vô cùng ngạc nhiên…" (FT 281)

Điểm độc sáng nỗi bật của Fratelli Tutti chính là việc hai lãnh đạo của hai tôn giáo lớn, Kitô giáo và Hồi giáo, trong lịch sử cũng như trong hiện tại có nhiều khác biệt và bất đồng, đã gặp gỡ, đối thoại và làm việc chung trên nền tảng của niềm xác tín mà Công Đồng Vatican II khởi xướng và đề cao:

"Mặc dầu trong quá khứ, giữa Kitô hữu và Tín đồ Hồi giáo có những mối bất hòa và hiềm thù nhau không ít, Thánh Công Đồng kêu gọi mọi người nên quên đi những chuyện đã qua để cố gắng thành thật tìm hiểu nhau, cùng nhau bảo vệ và cổ võ công bình xã hội, thuần phong mỹ tục cũng như hòa bình tự do cho hết mọi người" (Nostra Aetate 3).

Nói cách khác niềm ao ước cũng như giấc mơ của các nghị phụ Công đồng về tình huynh đệ của tín ngưỡng là nền tảng cho hoà bình của thế giới, đã trở thành hiện thực khi Đức Giáo hoàng Phanxicô và Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb cùng nhau

"kiên quyết tuyên bố rằng: các tôn giáo không bao giờ cổ võ chiến tranh, không kích động lòng hờn căm, sự thù địch và chủ nghĩa cực đoan, cũng không xúi giục bạo lực hoặc đổ máu. Những tai ách này là hậu quả của sự sai trệch khỏi giáo huấn tôn giáo. Chúng phát xuất từ sự thao túng chính trị của các tôn giáo và từ những diễn giải của các nhóm người trong tôn giáo, mà đôi lúc trong lịch sử, họ đã lợi dụng ảnh hưởng của tình cảm tôn giáo trong lòng các thiện nam tín nữ… Thực ra, Thiên Chúa là Đấng Toàn năng, không cần bất cứ ai bảo vệ, và cũng không muốn ai nhân danh Ngài mà khủng bố thiên hạ…" (21)

Tác giả: Lm. Paulus Ý
Nguồn: gpquinhon.org (17.12.2021)

_____________________

Chú thích:

(1) FT viết tắt của Fratelli Tutti. Các trích dẫn trong bài viết sẽ theo bản dịch Việt ngữ của Nhóm Dịch Thuật HĐGMVN được đối chiếu và hiệu đính khi cần, theo nguyên bản tiếng Ý và tiếng Anh của Toà Thánh.

(2) Theo chú thích số 5 của bản văn Fratelli Tutti trong trang của Toà Thánh, tài liệu nguyên gốc mang tên Document on Human Fraternity for World Peace and Living Together, Abu Dhabi (4 February 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 February 2019. Kể từ đây sẽ trưng theo tên bản dịch của HĐGMVN.

(3) Về nguồn gốc Á Châu của Kitô giáo, trong Tông Huấn Ecclesia in Asia, ban hành ngày 06.11.1999, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã khẳng định: “… chính tại Á Châu mà Thiên Chúa đã mạc khải và hoàn thành ý định cứu độ của Người ngay từ đầu. Người hướng dẫn các tổ phụ và kêu gọi ông Môisen giải thoát dân Người. Người nói với Dân được tuyển chọn qua nhiều ngôn sứ, quan án, vua chúa và những phụ nữ dũng cảm đầy lòng tin. Vào thời viên mãn Người sai Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ, mặc lấy xác phàm làm người Á Châu!... Vì Đức Giêsu sinh ra, sống, chết và chỗi dậy từ cõi chết nơi Đất Thánh, vùng đất bé nhỏ ấy ở Tây Á đã trở nên mảnh đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho cả loài người. Đức Giêsu đã biết đến và yêu mến mảnh đất này. Người gắn bó với lịch sử, những đau khổ và hy vọng của dân miền này. Người thương yêu dân miền này và đi theo truyền thống và di sản Do Thái. Quả thực từ lâu trước, Thiên Chúa đã chọn dân này và mạc khải chính mình cho họ để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Và từ mảnh đất này, nhờ lời rao giảng Tin Mừng trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội đã ra đi để làm cho "muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28, 19). Cùng với Giáo hội hoàn cầu, Giáo hội tại Á Châu sẽ bước qua ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, vừa kinh ngạc trước những gì Thiên Chúa đã thực hiện từ những bước đầu ấy cho tới ngày nay, vừa hiểu rõ rằng cũng như trong ngàn năm thứ nhất, Thánh Giá đã được cắm trên miền đất Âu Châu, rồi trong ngàn năm thứ hai được cắm trên miền đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng ta có thể cầu ước nguyện rằng, trong ngàn năm thứ ba Kitô giáo, một mùa gặt lớn về đức tin sẽ được thu hoạch tại lục địa rộng lớn và đầy sức sống này…” (Ecclesia in Asia 1)

(4) “La carità politica” (FT 190), theo nguyên bản tiếng Ý, được dịch ra là “Political charity” trong bản tiếng Anh của Toà Thánh.

(5) Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04.02.2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6, trích trong FT 192.

(6) Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04.02.2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6, được trích trong FT 275.

(7) Chúng ta sẽ bàn về đề tài “thánh chiến” một cách sâu xa hơn ở phần sau.

(8) Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04.02.2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng Hai 2019, tr. 7, được trích lại trong FT 283.

(9) JOHN XXIII, Espressa la sua gratitudine: Allocution at a General Audience, 27.07.1960, trong Osservatore Romano, 29.07.1960; được in lại trong Acta et Documenta Concilio Oecumenico Vaticano II Apparando, Series II (Praeparotoria), vol. 2: Acta Summi Pontificis Ioannis XXIII (Rome: Vatican City Press, 1964, p. 14.

(10) Nơi đây có ý nói đến “Triumphalism” (tạm dịch là “hoành tráng chủ nghĩa”), là một trong những chủ thuyết và cách sống mà các nghị của Công Đồng Vatian II đã nỗ lực để thanh tẩy cho cộng đoàn tín hữu Kitô. Về vấn đề này, có thể xem thêm GILLES PELLAND S.J., A Few Words on Triumphalism, in René Latourelle, ed., Vatican II, Assessment and Perspectives, Twenty-five Years After, Paulist Press, New York, Vol I, 106-122.

(11) Tâm thức phòng thủ (Anti-mentality) này điều khiển giai đoạn đối kháng (Counter-era) trong lịch sử Giáo Hội trước Công Đồng. Về vấn đề này, xem thêm “The End of Counter-Reformation Era” trong Paulus Y Pham, The Way, Christendom from Reformation to Vatican II, Rome, Miscellanea Francescana, 2017, 155-157

(12) Đây là phụ đề của Dignitatis Humanae, Tuyên Ngôn về Tự do Tôn giáo, của Công Đồng Vatican II, theo bản dịch của Giáo hoàng Học Viện Pio X, ấn hành 1972, 575.

(13) Đây là phụ đề của Nostra Aestate, Tuyên Ngôn về Liên Lạc của Giáo hội với các Tôn giáo Ngoài Kitô giáo, theo bản dịch của Giáo hoàng Học Viện Pio X, ấn hành 1972, 463

(14) Các nghị phụ cũng đã rất khó khăn để giải thích và vượt qua các giáo huấn quá nghiêm khắc về tôn giáo của giai đoạn trước Vatican II, tiêu biểu là Syllabus (năm 1864 – DZ2901-2980) của Đức Giáo hoàng Pio IX. Về vấn để này, có thể xem Jacques Dupuis, Toward Christian Theology of Religious Pluralism, Orbis Books, Maryknoll, New York 2001, p. 122-129.

(15) Về cuộc tranh luận và diễn tiến bỏ phiếu cho văn kiện, xem thêm Francis X. Murphy (Xavier Rynne), Vatican Council II, Orbis Books, Maryknoll, New York 1999, 98-109, 298-303.

(16) Hiện tại giáo phái Lefebvre và các nhóm bảo thủ ly khai từ chối Công Đồng Vatican II đều xem giáo huấn về tự do tôn giáo của Dignitatis Humanae là sai lạc.

(17) Một trong những tiếng nói chống đối mạnh nhất đại diện cho khuynh hướng bảo thủ chống lại đường hướng cởi mở và đổi mới của Công Đồng Vatican chính là Marcel Lefebvre (1905-1991), một Giám mục người Pháp mà tên tuổi của ông gắn liền với giáo phái Pio X, ly khai khỏi Giáo hội sau Công Đồng Vatican II. Lefebvre đã là thừa sai truyền giáo tại Phi Châu và đã từng được giữ chức Đại diện Giáo hoàng cho các nước thuộc địa Pháp tại Phi Châu, gồm 46 địa phận truyền giáo nói tiếng Pháp tại Phi Châu.

(18) Về chiều kích của văn kiện, xem thêm Bernd Groth SJ, From Monologue to Dialogue in Conversation with Nonbelievers or The Difficult Search for Dialogue Partners, trong René Latourelle, ed., Vatican II, Assessment and Perspectives, Twenty-five Years After, Vol III, 184-198

(19) Đây là một chọn lựa, trước hết của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan XIII và sau là của toàn thể Công Đồng, x. Bernd Groth SJ, From Monologue to Dialogue in Conversation with Nonbelievers or The Difficult Search for Dialogue Partners, trong René Latourelle, ed., Vatican II, Assessment and Perspectives, Twenty-five Years After, Vol III, 185-189

(20) Trong sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn của Gaudium et Spes số 16 được dùng để định nghĩa về sự thánh thiện và bất khả xâm phạm của lương tâm của mỗi con người: “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác… Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ…” (GLCG số 1776 – Nhấn mạnh của người viết).

(21) Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04.02.2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6, được trích dẫn trong FT 285. Nhấn mạnh của người viết.