Tầm quan trọng của Công đồng Vatican II (2)
(tiếp theo)
4. Giáo Hội trong việc thờ phượng Chúa
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã giúp chúng ta hiểu Công Đồng lên tiếng dạy dỗ chúng ta nhưng luôn với ý thức phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Thiên Chúa được dành cho vị thế ưu tiên rõ ràng nhất là trong phụng vụ. Người ta không thờ phượng ai mà tự bản thể không trổi vượt hơn mình. Hiểu như thế chúng ta mới thấy tại sao văn kiện đầu tiên của Công Đồng là văn kiện liên quan đến phụng vụ - “Sacrosanctum concilium” (“Thánh Công Đồng” hay Phụng vụ: PV). Sứ mạng trước tiên của Giáo Hội trong thế gian là thờ phượng Chúa. Giáo Hội được quy định và tổ chức để hướng về Thiên Chúa là đấng tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa thế giới. Vì yêu các thụ tạo, Thiên Chúa gởi Con duy nhất của mình đến cứu thế giới và sửa chữa lại quan hệ thân hữu của chúng ta với Thiên Chúa. Giáo Hội có mặt trong thế giới như một mầu nhiệm của sự hiệp thông. Từ quan hệ đúng đắn với Chúa, Giáo Hội sẽ có năng lực của sự thật và tình yêu để xếp đặt lại trật tự thế giới. Khi thờ phượng Chúa, Giáo Hội cũng khám phá ra mình thực sự là ai. Xuyên qua những văn kiện công đồng khác nhau ấy, Giáo Hội bày tỏ ước nguyện của mình là làm sao đưa Thiên Chúa đến gần con người và con người đến gần Thiên Chúa. Giáo Hội sẽ nhìn mọi sự khác dựa vào quan hệ ấy và từ viễn cảnh ấy: từ Giáo hội, lịch sử, phụng vụ, sứ mạng, truyền thông, văn hóa, chính trị, giáo dân đến chức linh mục. Vì Đức Giêsu Kitô là nơi gặp gỡ của thần tính và nhân tính, nên Ngài chính là mô thức cho đời sống Giáo Hội và là tiêu điểm cho sứ mạng Giáo Hội, là người đưa gia đình nhân loại xích lại gần nhau và xích lại gần Thiên Chúa.
Các văn kiện Công Đồng, bắt đầu là hiến chế PV, đều nói về việc thờ lạy Thiên Chúa vào buổi ban đầu của gia đình nhân loại, như Ađam đã có được sự thân nghĩa với Thiên Chúa trong vườn Êđen. Tình bạn thâm sâu này là khởi đầu cho một lịch sử cứu độ và cũng là điểm kết cho lịch sử ấy, là “culmen et fons” (‘cao điểm và cội nguồn’) của Giáo Hội trong dòng lịch sử. Như có nói trong đoạn thứ hai của hiến chế PV : “Nếu phụng vụ là phương thế ngày ngày kiến tạo những người đang sống trong đền thánh trở thành những tòa nhà cho Chúa cư ngụ trong Thánh Thần, thì phụng vụ cũng là phương thế củng cố mọi người cho có khả năng rao giảng Đức Kitô, giới thiệu thế giới cho đấng Cứu Thế”. Thờ phượng và truyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Đó là hai hoạt động, nhưng cái này bao hàm cái kia nếu biết thực hiện hoạt động ấy một cách đúng đắn và trung thực.
Hình ảnh ẩn dụ của đền thờ - nơi ưu tiên để làm việc thờ phượng – thường được dùng để nối kết thờ phượng với đời sống. Giáo Hội là đền thánh từng được các giáo phụ ca ngợi khi nhìn thấy Giáo Hội được tựng trưng qua các đền thánh làm bằng gỗ đá. Giáo Hội là một thân thể gồm mọi bộ phận và chi thể tùy thuộc vào Thiên Chúa như đã nói trong hiến chế GH số 13: “Mọi người đều được gọi làm thành một dân mới của Thiên Chúa vì dân dân này vẫn còn rải rác khắp thế giới. Có nhiều quốc gia nhưng chỉ có một dân Chúa vì dân ấy (Giáo Hội) thu hút các thành viên từ mọi quốc gia”. Giáo Hội sẽ làm gì khi lôi kéo mọi người vào đoàn hội, vào thông công với mình, vào đơn vị duy nhất của mình? Giáo Hội sẽ chỉ cho họ thấy phải thờ phượng Chúa thế nào. Ngay cả trong hiến chế MV, khi đọc các dấu chỉ của thời đại, Giáo Hội không bắt đầu làm việc với các trào lưu xã hội mà sẽ tìm cách phân định Chúa đang hoạt động thế nào trong thế giới. Những dấu hiệu ấy đã trở thành những lời mời gọi mọi người thờ phượng Chúa là đấng đang ra tay cứu độ dân mình, nỗ lực xây dựng đền thánh cho dân ấy và nơi dân ấy.
5. Giáo Hội trong nội bộ của mình
Giáo Hội là một sự hiệp thông, một lô các quan hệ được xây dựng trên việc cùng nhau chia sẻ các ơn của Đức Kitô ban cho để làm nên dân Chúa. Ơn riêng lớn nhất là ơn được sự sống của Thiên Chúa, được ban cho qua phép Rửa, đưa mọi người vào sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ơn này là ơn căn bản cho đời sống Giáo Hội. Khi kỷ niệm 20 năm công bố hiến chế tín lý “Lumen gentium” về Giáo Hội (“Ánh sáng muôn dân” hay Giáo Hội : GH), đức Gioan Phaolô II đã phát biểu: “Giáo Hội toàn cầu được giới thiệu như là sự hiệp thông giữa các giáo hội, và một cách gián tiếp là sự hiệp thông giữa các quốc gia, ngôn ngữ, văn hóa. Mỗi một đơn vị này đều mang tới cho Giáo Hội toàn thể “ơn” riêng của mình, y như mỗi thế hệ và thời đại, mỗi thành quả khoa học và xã hội, mỗi giai đoạn văn minh mà người ta đang từ từ tiến tới. Cách riêng, chính vì có tính phổ quát để tô điểm và phân biệt Giáo Hội, mà Giáo hội biết phải làm sao hài hòa các “ơn”ấy hầu được thống nhất cao hơn, hầu các ơn ấy góp phần khằng định dần vương quốc của Đức Kitô là vương quốc chỉ có một mà thôi”.
Vào một dịp khác, bằng các thuật ngữ triết học, đức Gioan Phaolô II còn mô tả sự hiệp thông Giáo Hội là một mạng lưới các quan hệ giao thoa nhau: ai cũng cho và ai cũng nhận, để từ đó chúng ta hiểu ra thế nào là anh em chị em trong Đức Kitô. Mối dây hiệp thông của Công Giáo chính là Giáo Hội có mặt khắp nơi, và đúng là công giáo theo nghĩa địa lý. Quan trọng hơn, nền tảng có phẩm chất để tính công giáo được mở rộng chính là đức ái được chia sẻ cho mọi người, chính là sự hiệp thông giữa nhiều người xuất phát từ sự hiến thân cho Đức Kitô và cho nhau. Đây mới chính là tính công giáo dồi dào, mang lại cho Giáo Hội tính cách riêng của mình. Việc tự nguyện chia sẻ cho nhau được diễn tả trong nội bộ Giáo Hội bằng cách cùng tuyên xưng một đức tin và bằng cách thi hành các việc làm bác ái. Còn đối với bên ngoài, nó được biểu lộ qua việc đối thoại với những ai không chia sẻ đức tin với chúng ta. Nhờ đối thoại, Giáo Hội giúp mọi người khám phá ra phẩm giá của mỗi một con người và giúp hợp nhất mọi người trong sự quan tâm yêu thương nhau.
Thế nên, các quan hệ làm nên sự hiệp thông của Hội Thánh Công Giáo rất đa dạng và rất phong phú. Những quan hệ nền tảng nhất là những quan hệ thuộc bình diện hữu thể, xuất phát từ Thiên Chúa và từ những con người đã được mời gọi tham dự vào đời sống thần linh. Một số quan hệ khác có tính pháp lý. Hoặc dựa trên cơ chế do Chúa thiết lập như quan hệ trong tông đồ đoàn, hoặc dựa trên luật Giáo Hội như các tòa thượng phụ cùng với các quan hệ của một số giáo hội trên một vùng lãnh thổ nào đó. Có những quan hệ Giáo Hội thấy được, có những quan hệ vô hình, có những quan hệ vừa thấy được vừa vô hình. Có những quan hệ chỉ liên kết những người đang sống trong sự hiệp thông Giáo Hội trông thấy được, có những quan hệ nối kết người tin với cả những người không phải là kitô hữu. Có những quan hệ mang tính phụ tùy thôi, không cần để làm nên Giáo Hội nhưng vẫn là một phần trong kinh nghiệm mà Giáo Hội đã trải qua. Có những quan hệ tự nó chỉ mang tính biểu tượng, có thể mở cộng đoàn Giáo Hội vượt ra ngoài không gian và thời gian bình thường. Có những quan hệ dựa trên sự chia sẻ chung củng cố thêm cho sự bình đẳng trong cộng đoàn Giáo Hội. Như thế, dù không cùng một mức độ hay cùng một phương cách, nhưng tất cả mọi tín hữu đều chia sẻ đời sống của Thiên Chúa, chia sẻ đức tin và bí tích Thánh Thể cũng như sự cai trị tông truyền.
Mặt khác, có những quan hệ dựa trên sứ mạng khác nhau hay đoàn sủng khác nhau có xu hướng làm tăng thêm sự khác biệt trong cộng đoàn Giáo Hội. Chẳng hạn, ơn gọi làm linh mục hay giám mục, sáng lập một dòng tu, thành lập những giáo hội địa phương, phát triển các phong trào hoạt động xã hội của Giáo Hội, tất cả có vẻ như đang làm giảm bớt sự hiệp thông bằng cách phân chia các nhóm tín hữu khác nhau, nếu người ta không biết hài hòa các khác biệt của các tập thể ấy với toàn thể. Còn một nguồn rất quan trọng, dù vô hình, tạo ra bất bình đẳng trong các quan hệ Giáo Hội, đó là tình yêu ở các mức độ khác nhau trong tâm hồn các tín hữu. Tuy nhiên, nếu là tình yêu thật thì tình yêu ấy không thể nào đe dọa phá vỡ sự hiệp thông.
6. Mùa xuân Giáo Hội
Công đồng Vatican II được triệu tập cách đây 50 năm với hy vọng đó sẽ là một mùa xuân mới cho đức tin. Nhưng chẳng phải là người ta đã hy vọng sai? Trước tiên, hãy nhìn những gì các đức giáo hoàng đã làm để thực hành Công Đồng. Đức Phaolô VI, đức Gioan Phaolô II, rồi đức Biển Đức XVI mỗi vị đã dùng cương vị giáo hoàng của mình để thực hành Công Đồng, nhưng theo những cách thế khác nhau tùy theo năng khiếu của mỗi vị. Đâu là những nét riêng mà mỗi vị đã mang lại cho triều đại của mình?
Đức Phaolô VI đúng là một viên chức giáo triều hoàn hảo. Ngài quá rõ đường đi nước bước của giáo triều Roma vì đã sống và làm việc ở đó khá lâu. Ngài đã tìm cách quốc tế hóa giáo triều và đưa ra những quy tắc mới để các bộ làm việc ăn khớp với nhau, tạo ra một cơ quan hành chánh uyển chuyển hơn để có thể đáp ứng nhu cầu của dân Chúa trong khi thi hành sứ mạng của Giáo Hội. Ngài đã thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục như một thực thể thường trực ở bên ngoài cơ chế giáo triều. Đó là cơ quan quy tụ các giám mục đại diện các hội đồng giám mục và là nơi thực hiện tính tập thể bên ngoài các công đồng chung. Cơ quan ấy sẽ giúp các giám mục củng cố vai trò chăn dắt và giảng dạy bằng cách tham gia vào một khung cảnh rộng lớn hơn nhiều so với giáo phận và hội đồng giám mục của mình. Đức Phaolô VI đã tìm cách giải thích thần học về sự hiệp thông hay nhãn quan giáo hội còn dang dở của Công Đồng trong tông thư đầu tiên của mình là “Ecclesiam suam” (‘Giáo Hội của Người’, 1964). Ngài là người đã giới thiệu thần học về Giáo Hội và góp phần xây dựng thần học ấy trước, trong và sau Công Đồng. Thế nên, ngài phải tìm cách tổ chức việc cai quản Giáo Hội thế nào cho thành khuôn mẫu diễn tả thần học ấy.
Đức Gioan Phaolô II nối kết thần học về sự hiệp thông với sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội, cả trên lý thuyết cũng như trong thực hành. Ngài thực hành Công Đồng bằng cách giảng cho thế giới biết Đức Kitô là ai. Ngài tìm cách củng cố sự hiệp nhất sống động của các tín hữu đang có mặt trong cộng đoàn Giáo Hội, bất kể giữa họ với nhau còn có những chia rẽ hay những đố kỵ của lịch sử. Ngài đã gia tăng những mối quan hệ giữa các tôn giáo như một cách để bảo vệ hòa bình giữa các dân tộc và quốc gia.
Còn đức Biển Đức XVI đã tìm cách khôi phục và củng cố vị thế trung tâm của việc thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật, bắt đầu từ trong tâm thức của chúng ta về Giáo Hội. Ngài đã thâu họp cả truyền thống Giáo Hội trong các bài giảng và tông thư chủ đạo của mình. Ngài tìm cách làm cho người ta hiểu Công Đồng theo chiều hướng của một cuộc cải cách, nghĩa là không thay đổi trong nguyên tắc nhưng không quên hoàn cảnh đang đổi thay. Ngài đã cho thấy nếu được hiểu đúng đắn thì Công Đồng không thể nào là nguồn chia rẽ trong Giáo Hội, mà Công Đồng đã biết vận dụng sự hợp nhất nội tại của mình để đưa thế giới tới sự hòa bình của Đức Kitô.
Năm mươi năm sau khi Công Đồng được khai mạc, có hai câu hỏi cần đặt ra: điều gì đã làm Giáo Hội bớt ý thức về mình và điều gì đã giúp Giáo Hội gia tăng ý thức về mình ? Làm giảm bớt ý thức ấy trước tiên là giải thích Công Đồng theo chiều hướng chính trị như những nhà chủ trương ý thức hệ hoặc phóng khoáng hoặc bảo thủ. Phân chia tự do và bảo thủ là một sự phân chia bắt nguồn từ việc thành lập các quốc gia trần thế, trong đó dân chúng được đặt đối diện với giới cầm quyền, chứ không đối diện với sự thật. Tự do là người có xu hướng ưa chỉ trích quyền hành, còn bảo thủ là người có xu hướng bảo vệ quyền hành. Đời sống chính trị của chúng ta sẽ diễn ra trong thế thỏa hiệp giữa hai trận tuyến ấy. Đang khi đó Giáo Hội chỉ quan tâm tới điều đúng điều sai, là ngôn ngữ của Tin Mừng. Nếu cứ phân tích tổ chức Giáo Hội ở bình diện chính trị thế gian thì Công Đồng sẽ không còn giá trị gì nữa. Công Đồng không trực tiếp quan tâm tới việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội, nhưng quan tâm tới phương cách làm sao cho các chân lý mặc khải của Chúa có thể đến được với thế giới hôm nay bằng cách thay đổi Giáo Hội đủ để biến Giáo Hội thành một người có khả năng đối thoại tuyệt vời với mọi người trên thế giới. Cứ tranh cãi tự do hay bảo thủ sẽ làm suy yếu tính công giáo của Giáo Hội và sẽ đưa vào cuộc sống nội bộ Giáo Hội chính những chia rẽ đang diễn ra trong thế giới, khiến Công Đồng chỉ loay hoay tìm cách làm sao khắc phục những chia rẽ ấy – khắc phục bằng cách đưa mình lên thật cao thật xa. Những chia rẽ trong nội bộ xuất phát từ những sự phân tích chính trị sai lầm cũng sẽ làm tê liệt công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, vì chẳng có ai hành động như thể một người với hai bộ óc. Một khi bị tắc đường như thế, Giáo Hội đành phải ngừng lại thôi. Chính sự tê liệt – ít là trên nguyên tắc – trong khi thi hành sứ mạng như thế đã bắt Giáo Hội phải triệu tập công đồng. Một Giáo Hội mà chính trị hóa thành hai phe tự do và bảo thủ như thế sẽ làm hỏng công trình của Chúa Thánh Thần.
Thứ đến, làm suy yếu ý thức của Giáo hội về mình mà lẽ ra trong tư cách thành viên của Giáo hội Công Giáo phải là ý thức của chúng ta, chính là sự chống đối công khai và mạnh bạo đối với giáo huấn luân lý của Giáo Hội. Ngay sau ngày lễ kính Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành lễ kính vị thánh tử đạo đầu tiên là thánh Têphanô, người đã bị ném đá tới chết vì dám quả quyết Đức Giêsu cao cả hơn Môsê. Sau đó là lễ kính các thánh anh hài, những trẻ bị giết cũng vì sự có mặt của chúng đã đe dọa tới trật tự chính trị của vua Hêrôđê. Rồi thánh Thomas Beckett cũng được Giáo hội kính nhớ như một người đã bị giết chỉ vì vua Henri II cho rằng ông ấy không cho phép nhà vua nắm quyền kiểm soát trên Giáo Hội ở Anh Quốc. Ngày 18 tháng 12 vừa qua, 22 tu sĩ thuộc dòng chúng tôi (dòng OMI hay dòng Hiến Sĩ Đức Maria Vô Nhiễm) đã được phong làm chân phước tại Madrid. Phần đông họ là các chủng sinh, cùng với một vài giáo sư và cha bề trên tổng quyền, bị bắt đưa ra khỏi tu viện, xếp hàng và bị bắn mà không hề được xét xử chỉ vì Giáo Hội lúc ấy là đối tượng của thù ghét. Tất cả những cái chết này đều xuất phát từ chỗ người ta chống lại đức tin. Còn bây giờ người ta chống đối Giáo Hội chỉ vì giáo huấn luân lý của Giáo Hội, mà thường thường là bênh vực sự sống con người., bất kể nó yếu đuối tới đâu, và chỉ vì Giáo hội giảng dạy tính dục của con người là ân huệ do Chúa ban. Trong nền văn hóa sau thời kỳ của Freud này, bản sắc và tự do của con người được trói chặt với tính dục tới nỗi không mấy ai thích nhìn thiên nhiên và định mệnh con người cách rộng rãi hơn như trong các văn kiện của Vatican II. Một khi tự do con người bị giảm xuống thành tự do tính dục thôi thì giáo huấn luân lý của Giáo Hội về vấn đề này hẳn sẽ bị khính rẻ và có khi bị thù ghét, bị thoái thác và có khi bị chống đối kịch liệt.
Thế nên, muốn đối thoại với thế giới, cần phải kiên trì kiếm tìm những phương cách diễn tả đức tin một cách hữu hiệu hơn trong những nền văn hóa đang định hình. Một khi nhiều phần trong thần học luân lý của chúng ta, nhất là giáo huấn của Giáo Hội về việc bảo vệ sự sống con người và về tính dục được coi là quà tặng của Thiên Chúa, đều được rút ra từ luật luân lý tự nhiên, chúng ta càng cần đào sâu hơn những lời bình luận của đức Biển Đức XVI về những vấn đề này trước giới lãnh đạo Công Hòa Liên Bang Đức trong chuyến công du gần đây của ngài về Đức. Chống lại chủ nghĩa duy thực chứng theo luật, đức giáo hoàng đã không trình bày luật luân lý tự nhiên bằng cách phân tích cứu cánh tự nhiên của các hoạt động con người, mà ngài đưa ra một lý thuyết luân lý phản ảnh quan điểm về môi sinh nhân loại. Nói cách khác, nếu tôi hiểu không sai, ngài cho biết chúng ta có thể diễn tả luật luân lý tự nhiên không chỉ bằng phạm trù cứu cánh mà còn bằng phạm trù quan hệ. Nhờ đó, chúng ta có thể đưa thần học luân lý vào một bối cảnh rộng lớn hơn là thần học về hiệp thông.
Thứ ba, một điều cản trở người ta quan tâm và chú ý tới ý thức của Giáo Hội về bản thân mình chính là chủ nghĩa vô thần hiếu chiến, không phải chủ nghĩa vô thần dựa trên chủ nghĩa cộng sản mà đúng hơn dựa trên chủ nghĩa thế tục cực đoan. Quên lãng Thiên Chúa là quên mất mình là ai, như Công Đồng cho biết. Giải thích Công Đồng theo hướng chính trị, chống đối Giáo Hội vì giáo huấn luân lý của Giáo Hội, và chủ nghĩa vô thần hiếu chiến, tất cả đều liên kết với nhau để ngăn cản chúng ta hiểu mình là một thành phẩn của cả một mạng lưới các quan hệ trong Giáo Hội, mà Công Đồng đã gọi là mạng lưới hiệp thông.
Như thế có hiện tượng nào đã khiến chúng ta tin rằng Công Đồng đã được đón nhận và khiến chúng ta dám hy vọng về một mùa xuân như Chúa đã hứa ? Theo tôi, có một dấu chỉ để chúng ta có quyền hy vọng như thế là tinh thần quảng đại của các người Công Giáo, ngày càng rõ và ngày càng phổ biến. Tính thu dụng (“inclusivity”) là một thuật ngữ thế tục, nhưng có thể dùng để chỉ tính “công giáo” của Giáo Hội. Thật vậy, nếu chữ “thu dụng” có thể mang những nghĩa khá hàm hồ theo các giáo hội Phúc Âm, thì trong thực tế người ta thường hiểu đó là một cách để nói rằng từ nay người ta không thể sống với một ý thức quá hẹp hòi. Vào tuổi tôi khi lớn lên, người ta quen sống trong gia đình của mình, giáo xứ của mình, khu xóm của mình, mà thường không nhận thức cũng chẳng quan tâm tới những người ở bên kia nửa địa cầu hay thậm chí ở bên kia thành phố. Ngày nay không ai có thể sống như thế nữa. Ý thức toàn cầu đã nảy sinh khi mọi người được thông báo phi thuyền Apollo đã đáp xuống mặt trăng năm 1968: cả thế giới đã được truyền hình cho thấy hình ảnh hành tinh xinh đẹp của chúng ta đang chao qua lượn lại trong một đại dương bao la đen kịt. Hiện nay, nhất là nơi các người trẻ, ý thức được mở rộng ra và nhờ đó ai nấy đều tỏ ra rất có tinh thần quảng đại. Mà chỗ nào có sự quảng đại về tinh thần như thế, chỗ đó có Chúa hoạt động.
Sau cùng, mùa xuân được hứa hẹn đã đến nhờ phong trào canh tân phụng vụ vẫn tiếp diễn, một công việc mà đức Biển Đức XVI coi là tâm điểm giáo huấn và thừa tác vụ của mình trong Giáo Hội. Những nỗ lực không bền bỉ và không đồng đều trong việc cải tổ phụng vụ, thường chỉ dừng lại ở mặt ngoài của các nghi thức, nay đang được xét lại. Khi đọc lại hiến chế PV, chúng ta sẽ có cơ hội thúc đẩy đời sống Giáo Hội tiến lên để trở thành một sự hiệp thông với chính Chúa thông qua Người Con với quyền năng của Thánh Thần. Chính khi cùng nhau thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật và thật sự trở thành dân Chúa, là chúng ta đang thực hành công đồng Vatican II. Thờ phượng là một hành vi mang tính cánh chung, đưa chúng ta tới gần lời hứa của Ngài về Nước Trời, giúp chúng ta nhận thức được lời Chúa hứa ấy bây giờ đang là mùa xuân của Giáo Hội, nhưng sẽ không bao giờ trở thành mùa hè với ngàn hoa rực rỡ. Chúng ta đang thi hành sứ mạng trong thế dằng co giữa hy vọng hứa hẹn và hoàn thành mỹ mãn. Chúng ta có thể nhìn thấy kết quả của Công Đồng dễ dàng hơn, nếu biết vận dụng đức tin để nhận ra các dấu chỉ của thời đại và biết chuyển cái nhìn ấy thành những kế hoạch mục vụ, biến Giáo Hội thành nhúm men có khả năng hiệp nhất trong lòng thế giới hôm nay.
Phêrô Đặng Xuân Thành tóm dịch
NB. Những chỗ in đậm trong bài, không phải các tiêu đề, nhưng là của dịch giả.
Nguồn: giaolyductin.org