Tỏa sáng ngọc quý Nước Trời – Những bước thăng trầm Giáo hội Việt Nam 60 năm (1)
Mục lục:
I. NƯỚC TRỜI GIÁO HỘI LÀ NGỌC QUÝ
1. Một biểu tượng Kinh Thánh và lịch sử
2. Ngọc Giáo hội Việt Nam: 400 năm kết tinh
II. KHÁM PHÁ NGỌC QUÁ KHỨ GIÁO HỘI VIỆT NAM
1. Những vị tiền bối trong đức tin
2. Sống Tin mừng bác ái yêu thương
3. Lưu truyền chữ quốc ngữ và phát triển văn hóa
III. GIÁO HỘI VIỆT NAM, 60 NĂM THĂNG TRẦM
2. Hội thánh Việt Nam trước 1975
IV. GIÁO HỘI VIỆT NAM, THỜI BAO CẤP VÀ ĐỔI MỚI
V. GIÁO HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY: TRUYỀN THỐNG VÀ ƯU TIÊN
2. Ưu tiên mục vụ gia đình và giới trẻ
I. NƯỚC TRỜI GIÁO HỘI LÀ NGỌC QUÝ
1. Một biểu tượng Kinh Thánh và lịch sử
Hội thánh Việt Nam mừng 60 năm thành lập hàng Giáo phẩm (1960-2020), cũng được gọi là mừng ngọc khánh, mừng lễ ngọc. Xin triển khai đề tài “Ngọc quý Nước Trời”, một biểu tượng có nền tảng Kinh Thánh, đồng thời hàm chứa nhiều nội dung tương hợp và phong phú.
Trước tiên, ta thấy ngôn sứ Isaia đã nói về Dân Chúa, là Giêrusalem mới bằng biểu tượng: “Ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Chúa” (Is 62,3). Sách Tobia ca tụng thánh điện Giêrusalem vững bền nhờ các loại ngọc quý: “Thành thánh Giêrusalem, sẽ làm bằng ngọc xanh ngọc biếc, mọi bức tường, toàn đá quý xây lên, đường phố sẽ lát đá Ô-phia và hồng ngọc” (Tb 13, 17). Trong Tin mừng thánh Matthêu, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh ngọc để nói về Nước Trời: “Nước Trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13, 45).
Đó cũng là biểu tượng thừa sai Đắc Lộ sử dụng trong lần hội ngộ đầu tiên với dân Việt Nam tại Kẻ Bạng (Thanh Hóa) ngày 19.03.1627. Cha giới thiệu về loại hạt trai quý mà không đắt, người nghèo nhất cũng có thể mua, miễn là có ý ngay lành. “Hạt trai này không thể coi bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân biệt thật giả. Đó là ‘đạo thật' có giá trị hơn hết các hàng hóa, có thể mở đường tới cõi phúc đích thực và trường cửu”. (1)
Bước thăng trầm của trân châu bảo ngọc bao gồm hai giai đoạn quan trọng: giai đoạn hình thành và giai đoạn chế tác. Cả hai giai đoạn có một điểm chung là hàm chứa nhiều gian nan và thử thách (2).
Trước tiên, viên ngọc được kết tinh, phải trải qua một quá trình lâu dài và gian khổ.
Ngọc dưới nước: khởi từ những dị vật như hạt cát, hạt sạn, vô tình lọt vào động vật nhuyễn thể (thân mềm) như hàu, ngao, sò hoặc trai. Con vật tự phòng vệ tiết ra chất xà cừ để bao phủ cái “dằm” đó lại, lâu ngày các lớp xà cừ đó tạo thành ngọc trai. Như thế, ngọc trai hình thành từ những vết thương lòng qua thời gian dài, hằn khứa vào máu thịt của những con trai ngọc. Ngày xưa người ta phải mò cả tấn con trai, mới tìm được một viên ngọc đẹp.
Ngọc trong lòng đất, mới đầu chỉ là một mẫu than đá hoặc phún thạch, trải qua hàng thế kỷ, có khi cả vạn năm. Cộng thêm nhiều điều kiện hoàn cảnh bên ngoài kích thích, xúc tác, chèn ép, nung đốt, dồn nén... mới trở thành ngọc. Ngọc thiên nhiên có trên 3.000 loại, trong đó hơn 100 loại được gia công và kinh doanh... thông dụng nhất là kim cương (diamond), hồng ngọc (ruby), ngọc bích (sapphire), và lục bảo ngọc (emerald)... (3).
Ngọc thường dùng làm vật trang sức (nhẫn ngọc, ấn ngọc, chuỗi ngọc, mũ ngọc, áo ngọc...). Nhưng theo đông y, ngọc còn có tác dụng phối hợp chữa trị bệnh tật như: giải độc, chữa xuất huyết, sốt rét, ngọc có thể giúp bổ mắt và tâm can tỳ phế. Ngọc góp phần tăng vẻ đẹp giới tính và kéo dài tuổi xuân. Một viên ngọc thực sự quý không chỉ ở trọng lượng hay độ lớn (số carat) mà ở độ hiếm, độ bền, màu sắc óng ánh, sự trong suốt, không bị rạn nứt hoặc tỳ vết ...
Nhưng ngọc chỉ thực sự giá trị và sáng ngời nhờ các nghệ nhân mài dũa, điêu khắc và chế tác ... Như người xưa thường nói: “Ngọc bất trác bất thành khí”, nghĩa là:
Tương ứng, lịch sử Giáo hội Việt Nam cũng đã trải qua hai giai đoạn chính. Giai đoạn hình thành kéo dài trên 400 năm, tính từ giáo sĩ đầu tiên được nói đến trong Khâm Định Việt Sử (4), năm 1533 đến năm 1960. Và giai đoạn dũa mài là chủ đề chính của bài này, với những thăng trầm trong 60 năm vừa qua.
Với niềm tin, người tín hữu xác tín: Thiên Chúa mới là tác nhân chính trong việc kết tinh và chế tác ngọc quý Giáo hội. Chính Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử và “làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến...” (Rm 8, 26). Theo ngôn sứ Isaia: Thiên Chúa chính là thợ gốm, còn con người là sành là sứ, vốn từ đất sét, được bàn tay Thiên Chúa nhào nặn mà thành (Is 45, 9).
Trước khi trình bày về Giáo hội thời hiện nay, xin ôn lại đôi nét về quá trình 400 năm kết tinh và hình thành.
2. Ngọc Giáo hội Việt Nam: 400 năm kết tinh
Trong buổi triều yết Đức Phanxicô ngày 05.03.2018, Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh chủ tịch HĐGMVN đã tóm lược đôi nét quá khứ Giáo hội Việt Nam như sau:
“Các vị thừa sai Âu Châu đã đem Tin Mừng đến Việt Nam từ thế kỷ XVI. Mãi đến hơn ba thế kỷ sau đó, các thế lực thực dân mới xâm lăng Việt Nam, nhưng chính quyền dân sự thời bấy giờ đã chắp ghép truyền giáo với thực dân và tố cáo người công giáo làm tay sai cho các thế lực nước ngoài. Hậu quả là suốt gần hai trăm năm liên tiếp, Kitô hữu Việt Nam đã không ngừng bị bách hại... Người công giáo luôn là nạn nhân của phân biệt, kỳ thị và ngược đãi”.
... “Nhưng chúng con rất vui mừng và cảm nhận được rằng Thiên Chúa đã biến tất cả những khó khăn thử thách đó thành những kho tàng quý giá: hàng trăm ngàn Kitô hữu đã được phúc tử đạo. Trong số đó, 117 vị đã được Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh ngày 19-06-1988. Biến cố đó đã trở thành một trong những kỷ niệm đẹp nhất và là niềm kiêu hãnh đậm nét nhất trong lịch sử cận đại của Giáo hội chúng con. Trong năm 2018 này chúng con long trọng cử hành (kỷ niệm) ngày hồng phúc ấy một cách cụ thể trong mọi sinh hoạt và ở mọi cấp cộng đoàn”.
Như thế với cái nhìn đức tin, tín hữu Việt Nam không đọc lại lịch sử quá khứ để kết án bất cứ ai hay than thân trách phận, trái lại còn coi đó là lý do để vui mừng và tạ ơn Chúa, như lời thánh Giacôbê từng nhắn nhủ: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì... Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Gc 1,2-4.12).
Thánh Phêrô thì xác định: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa” (1Pr 1,6-7).
Đó là số phận chung người môn đệ Đức Giêsu như chính Ngài đã báo trước: “Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,19-21).
Đó cũng là kinh nghiệm của thánh Phaolô tông đồ chia sẻ trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Chúng ta rao giảng một Đức Giêsu bị đóng đinh” (1Cr 1, 23), cũng là chủ đề thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II tái khẳng định trong bài giảng lễ tuyên thánh 117 tử đạo Việt Nam:
“Giáo hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo hội Âu Châu xưa. Từng ngàn giáo dân tử đạo, hàng trăm ngàn người đã chết lưu lạc trên núi cao hay trong rừng sâu nước độc!”...
“Nhưng các thánh tử đạo đã đóng vai trò người gặt lúa trong thánh vịnh 126: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5, 6).
Quả thế bóng dáng cây thập giá đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XVI với hai chứng nhân đầu tiên Luis Da Fonseca và Grégoire de la Motte (1588, 1589). Sang thế kỷ sau tại Roma cha Đắc Lộ trình bày về tín hữu Việt Nam đã có chân phước Anrê Phú Yên (1644) và sáu vị tử đạo khác (5).
Danh sách ấy kéo dài thêm mãi. Trong số 117 vị đã được tuyên hiển thánh có 2 vị thời chúa Trịnh Doanh (1744); 2 vị thời chúa Trịnh Sâm (1773); 2 vị thời vua Cảnh Thịnh (1789); 58 vị thời vua Minh Mạng; 3 vị thời vua Thiệu Trị và 50 vị thời vua Tự Đức.
Rồi những cuộc sát hại tập thể vào những năm 1861-1862, như: 100 đầu mục bị chôn sống ở cổng Tả Bắc Ninh; 400 tín hữu bị thiêu sống tại Biên Hoà, 444 tín hữu bị thiêu cháy thuộc bốn trại “Thôm, Thành, Đất Đỏ và Phước Dinh Hội”, nay thuộc giáo phận Bà Rịa; 28 tín hữu bị chém tại Ba Giồng, Mỹ Tho. Và đông đảo tín hữu bị tổng đốc Nguyễn Đình Tân thảm sát tại Nam Định: 131 người bị chém, 224 người bị trầm hà và 240 người bị chết đói (cấm cốc) (6).
Kế tiếp là phong trào Văn Thân và Cần Vương. Các sĩ phu phản đối triều đình nhượng đất cho Pháp. Nhưng trong khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả”, phong trào thực hiện mạnh mẽ vế thứ hai khiến nhiều làng Công giáo từ Bình Định trở ra bị tàn phá, với số nạn nhân lên đến 60.000. Lẽ ra trong cảnh nước mất nhà tan, các sĩ phu phải tìm cách nối kết mọi thành phần dân tộc, họ lại tạo nên sự kỳ thị chia rẽ, khiến cho mục đích chính lại càng bị đẩy ra xa hơn. Giáo hội Việt Nam hiện còn trên 2.000 đấng đáng kính đã hoàn tất hồ sơ tử đạo.
Nhân dịp năm thánh 2010, chúng tôi đã có bài giới thiệu về bảy giai đoạn “Thời Bảo Trợ và tông tòa” trong tập “Bối cảnh lịch sử Giáo hội Việt Nam và lịch sử Hàng Giáo Phẩm” do Ủy ban Văn hóa Đức tin HĐGMVN phổ biến (7).
II. KHÁM PHÁ NGỌC QUÁ KHỨ GIÁO HỘI VIỆT NAM
Có những ngọc quý ẩn sâu trong đá, phải đập vỡ đá mới thấy ngọc. Như chuyện ông Biện Hòa thời Xuân Thu dâng ngọc trong đá, bị các vua nước Sở nghi ngờ chặt hai chân rồi mới được công nhận (8). Giáo hội cũng vậy, để khám phá ánh sáng của ngọc, cần gạn đục khơi trong, gỡ bỏ lớp vỏ bọc đá cứng và bụi bặm bên ngoài. Ngọc thực sự kết tinh nơi những thái độ hành vi có giá trị Tin mừng. Chính Tin mừng tạo nên chất ngọc của cộng đoàn kitô hữu qua mọi thời.
Dĩ nhiên, không ai quá ngây ngô đến ảo tưởng rằng quá khứ lịch sử Giáo hội Việt Nam chỉ toàn những ánh hào quang. Chúa Giêsu đã từng báo trước: trong cánh đồng Nước Trời vẫn luôn có cỏ lùng bên lúa tốt, và trong lưới cá luôn có cá xấu lẫn với cá tốt. Như lời Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự sắc khai mạc năm đức tin: “Trong lịch sử đức tin, luôn có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi...” (9).
Sống giữa thế gian đầy cám dỗ, cạm bẫy và thử thách, nhiều tín hữu cũng a dua theo đời; cũng có lúc ích kỷ cầu an. Nhiều tín hữu thất bại trong hôn nhân gia đình. Không thiếu những Giuđa, phản thầy phản bạn, trao nộp bạn bè và người thân cho quan lính để kiếm tiền thưởng. Trước những đe doạ của gông cùm, xiềng xích, ngục tù và cái chết, không thiếu những người, có cả các linh mục, vì ham
sống sợ chết mà đang tâm chối bỏ đức tin. Ngay trong danh sách 117 hiển thánh cũng có các vị từng đạp lên thập giá.
Trong bài viết này, ngoài các vị tiền bối trong đức tin, xin ghi nhận hai nội dung đặc biệt, không phải để đánh bóng tô hồng, nhưng để rút ra bài học cho tín hữu ngày hôm nay, đó là mẫu gương bác ái tập thể, và những đóng góp về văn hóa xã hội ...
1. Những vị tiền bối trong đức tin
Không hề nghi ngờ viên ngọc quá khứ Giáo hội Việt Nam sáng ngời nhất trong mẫu gương can đảm, sự kiên trung của các tín hữu, đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin, thắng vượt mọi thử thách đau thương và cả cái chết. Bên các hiển thánh và chân phước, còn có nhiều chứng nhân vô danh. Ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn lên bàn thờ 117 hiển thánh Tử Đạo tại Việt Nam,
cũng là cơ hội để tín hữu Việt Nam “tiếp nối đức tin của Tổ tiên và truyền sang nhiều thế hệ tương lai” (10).
Năm 2018 Hội đồng Giám mục đã tổ chức kỷ niệm 30 năm biến cố tuyên thánh, cổ võ học hỏi, hành hương và phổ biến tập “Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam” (11). Danh sách các chứng nhân được bổ sung thêm chân phước thầy giảng Anrê Phú Yên (suy tôn 05.03.2000 tại Roma), hai chân phước linh mục Gioan Malot, MEP, tử đạo tại xứ Vĩnh Hội, Hà Tĩnh và Giuse Lương Thạo Tiến, thuộc linh mục đoàn giáo phận Thanh Hóa (suy tôn 21.12.2016 tại Lào).
Xác tín Hội thánh Việt Nam được trưởng thành nhờ dòng máu hào hùng của các chứng nhân đức tin, Tòa thánh đã sắp xếp lễ “Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo” vào đúng ngày thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960, ngày 24/11 hằng năm. Hội thánh Việt Nam mừng trọng thể, còn với Hội thánh khắp nơi, đây là lễ nhớ buộc.
Từ ngày ấy, nhiều thánh đường và đền kính các thánh tử đạo đã được khánh thành tại quê hương, tại nơi các vị đã sinh sống, hay tại nơi các vị làm chứng cho đức tin..., ngày càng thu hút nhiều khách hành hương, đặc biệt trong ngày kính các ngài.
Đó cũng là một trong những ưu tiên mục vụ của các vị mục tử.Nhiều giáo phận đã tổ chức những năm thánh kỷ niệm năm sinh hoặc tử đạo của vị thánh. Đặc biệt, đa số các buổi lễ kính được tổ chức theo nghi thức truyền thống dân tộc, với kiệu rồng, áo thụng, chiêng trống, bài vị và văn tế.
Tâm thức tín hữu Việt Nam hiện nay, đã dành một vị trí đặc biệt để yêu mến và tôn kính các thánh tử đạo tại Việt Nam. Danh sách 120 vị tiền bối đức tin được suy tôn trên bàn thờ là niềm tự hào chính đáng của hội thánh và của chúng ta, những đồng hương của các thánh, đồng thời cũng là lời kêu mời chúng ta, phải sống sao cho xứng đáng với tổ tiên mình, qua đời sống chứng nhân đức tin mỗi ngày.
Trong thư chung 2017, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu mời: “Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những chứng nhân anh dũng, dám sống mầu nhiệm hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại nhiều hoa trái” (x.Ga 12,23-25). Và nhắc lại lời nhắn nhủ của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong lễ tuyên thánh tại Rôma, ngày 19.06.1988:
“Hỡi các Kitô hữu Việt Nam, chúng tôi có thể nói rằng máu Các Thánh Tử Đạo là cho anh chị em, là nguồn ân sủng để tăng trưởng đức tin. Nơi anh chị em, đức tin của cha ông chúng ta tiếp tục được thông truyền cho những thế hệ mới. Đức tin này là nền tảng giúp cho anh chị em, vừa trung thành với quê hương Việt Nam, vừa tiếp tục là những môn đệ đích thực của Đức Kitô” (12).
2. Sống Tin mừng bác ái yêu thương
Ngay từ thời cha Đắc Lộ, đã thấy có những giáo dân tốt lành chăm sóc các bệnh nhân: “Với thánh giá Chúa, với nước phép họ đã thông thường chữa các thứ bệnh tật... Họ đến thăm viếng bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không đầy năm ngày đã chữa khỏi hai trăm bảy mươi hai người. Tiếng đồn khắp nước...” (13).
Tại Phú Yên, có công chúa Mađalêna Ngọc Liên con chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, đã làm nhiều việc thiện. “Bà còn sáng lập một bệnh viện để săn sóc tất cả giáo dân và người tân tòng bị chứng bất trị (bệnh nan y) (14).
Ở làng Van Nô có ông bà Giuse Lina “chuyên làm các việc bác ái... có một nhà thương cho người nghèo, trong đó hai ông bà thi thố các việc bác ái rất đáng khen. Không xa nhà thờ chúng tôi, có một bệnh xá cho một số người cùi” (15).
Theo lời cha Đắc Lộ, các tín hữu thay thế việc đốt vàng mã, đã gửi quà cho cha mẹ bằng cách “rộng rãi phát áo cho kẻ cùng khổ... Đến nỗi một kẻ nghèo khoe nhận được trong một năm, 28 cái áo chia sẻ cho người nghèo này... “ (16).
Cách sống của các tín hữu phản ảnh qua lời nhận định của người đương thời. Cha Gaspar d'Amaral, trong báo cáo gửi từ Thăng Long về Macao ngày 31.12.1632, đã ghi nhận, vì không biết đạo danh xưng mới: “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” (17).
Công đồng Ayuthia 1664, trong tập “Chỉ dẫn các thừa sai”, khuyên các vị “thành lập hội những người bảo trợ trẻ mồ côi và người goá bụa, có đạo hay ngoại đạo”... “Phải chăm sóc cách riêng những người bệnh, đến đầu giường những người hấp hối, và chôn cất tín hữu đã qua đời...” (18)
Về sau, qua hạnh tích các thánh Tử đạo chúng ta còn thấy nhiều mẫu gương bác ái yêu thương (19):
Với người “có đồng ăn đồng để” như y sĩ Phan Đắc Hoà, ông rộng rãi giúp người nghèo khổ, gặp bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Với ông Martinô Thọ, thì “công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, và ông trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ông là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại một lý trưởng đòi sưu cao thuế nặng. Ông Năm Thuông (Thông) là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Ông Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại phong cùi và sẵn sàng chăm sóc người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Với ông Cai Tả, thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình”. Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: “Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ”, vì ông nói: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”.
Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý”. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tổ tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành, một xin đi tu một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.
Đặc biệt, các tín hữu thời tử đạo còn để lại hai mẫu gương bác ái mang tính tập thể:
Mẫu gương thứ nhất thể hiện trong các mùa dịch: các tín hữu có mặt bên giường những bệnh nhân, chăm sóc và đưa họ đi nhà thương. Đó là giai đoạn các linh mục đi lại tự do. Trong mùa dịch toàn quốc năm 1850-1851, ngay tại kinh đô Phú Xuân, người ta được chứng kiến những nghi lễ an táng trọng thể, đi đầu là thánh giá nến cao, tiếp đến hai hàng tín hữu, rồi linh mục với phẩm phục khăn choàng, họ vừa đi vừa hát vang lên bài thánh ca tiễn biệt.
Mẫu gương thứ hai là phong trào Thánh Nhi (20). Mọi người thi đua nhau, nhất là các y sĩ, các dì phước và các bà đỡ, tìm mọi cách cứu giúp và rửa tội cho trẻ em bệnh nặng chết yểu. Họ thăm nom, săn sóc nuôi nấng, thuốc men và tổ chức an táng. Nếu các em sống sót, họ dạy giáo lý và nghề nghiệp cho đến khi tự lập được. Nhiều gia đình rất quảng đại nhận trẻ mồ côi làm con nuôi. Giáo phận Đàng Trong năm 1843 rửa tội 8.273 em (21). Giáo phận Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) năm 1855 rửa tội được 35.349 em (22).
Phong trào thánh nhi được duy trì lâu dài. Năm 1912, công đồng Kẻ Sở đã ghi nhận: “Trong các địa phận miền Bắc Kì này, nhờ ơn họ Tiểu nhi, là thật mẹ rất nhân lành cứu giúp các trẻ con nhà ngoại đạo, thì hằng năm gặt được ở đất kẻ ngoại đạo một bó hơn bảy vạn linh hồn, để thu vào kho tàng trên thiên đàng” (23).
Truyền thống bái ái trên còn được phát huy qua các cơ sở bác ái từ thiện và nhà thương như: các trại phong Văn Môn (1900), Quả Cảm (1913), Di Linh (1927), Quy Hòa (1929), Bến Sắn (1959) (24); các bệnh viện Saint Paul Hà Nội (1923), Saint Paul Sài Gòn (1936); trường câm điếc Lái Thiêu (khiếm thính Thuận An, 1880); các nhà tế bần, dưỡng lão. Các cô nhi viện còn được gọi là nhà thiên thần, hay viện Dục Anh. Một cơ sở Giáo hội vẫn đang phụ trách là cô nhi viện thánh An ở giáo phận Bùi Chu (1852).
3. Lưu truyền chữ quốc ngữ và phát triển văn hóa
Chữ quốc ngữ dựa trên mẫu tự Latinh được chính thức sử dụng tại nước ta từ năm 1919 thời vua Khải Định. Các sĩ phu như Trần Quý Cáp, Lương Văn Can, Phan Châu Trinh, dù xuất thân nho học đã cổ võ vì sự tiện lợi của nó. Nhưng trong thực tế, chữ quốc ngữ trải qua một quá trình nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, trong đó có sự đóng góp quan trọng của các kitô hữu.
Nếu nhân vật đầu tiên ký âm tiếng Việt năm 1618 là thừa sai Francisco de Pina ở vùng Nước Mặn Quy Nhơn, thì sau đó ta thấy công lao của nhiều thừa sai khác. Tại Macao, cha Gaspar Amaral hoàn tất từ điển Việt-Bồ, cha Antonio Barbosa soạn từ điển Bồ-Việt,là hai tác phẩm được cha Đắc Lộ sử dụng khi biên soạn và cho in tại Roma năm 1651 từ điển Việt-Bồ-La, với ký âm đủ 5 dấu. Khoảng năm 1684, cha chính giáo phận Đàng Trong là Pierre Langlois biên soạn từ điển Pháp-Việt 1500 từ.
Cũng phải ghi nhận sự đóng góp của một số người Việt thời này như nho sĩ Phêrô, các thày giảng Ignatio Liêm Công, Raphael Rhodes và Anrê Phú Yên. Tại Rôma hiện còn lưu giữ các lá thư chữ quốc ngữ của Igessio Văn Tín (1659) và tập Lịch sử nước Annam của Bento Thiện, (25) và nhiều tác phẩm của linh mục Philipphê Bỉnh SJ (26).
Suốt giai đoạn triều đình thượng tôn nho giáo, địa chỉ giúp cho chữ quốc ngữ được bảo vệ và lưu truyền là các cộng đoàn kitô hữu. Họ dùng sách kinh, sách suy niệm, hay sách truyện các thánh bằng chữ quốc ngữ. Ngoài ra đa số các từ điển chữ quốc ngữ do các nhân vật công giáo biên soạn:
Năm 1773, đức cha Bá Đa Lộc biên soạn từ điển La Việt và Việt La, sẽ được đức cha Taberd Từ và thánh Phan Văn Minh bổ sung, hoàn thành và phổ biến bộ “Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị” (tiếng Việt in bằng chữ quốc ngữ và chữ Nôm) in lần đầu năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ.
Kế đó là các bộ từ điển: Dictionnaire élémentaire Annamite- Français của cha Jean Génibrel Trường, in 1868; Tự vị Annam - PhaLanSa của Đức cha Caspar Lộc, in 1877; Dictionarium Annamiticum - Latinum của Đức cha Theurel Chiêu, in 1877; Dictionarium Latino - Annamiticum của linh mục Ravier Khánh, 1880.
Về phía người Việt: học giả Petrus Trương Vĩnh Ký soạn từ điển Petit dictionnaire Français-Annamite, in 1884; và ông Paulus Huình Tịnh xuất bản Đại Nam quấc âm tự vị (từ điển Việt - Việt đầu tiên), in 1895. Hai vị là giám đốc và chủ bút Gia Định Báo từ năm 1869.
Hai học trò của Petrus Ký là Gioan B. Nguyễn Trọng Quản xuất bản tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên Truyện Thầy Lazaro Phiền (in 1887); và Trương Minh Ký với tuồng hát bội đầu tiên Joseph tuồng (ấn bản 1888).
Giữa thế kỷ XIX, xuất hiện các nhà in công giáo như Tân Định, Phú Nhai, Ninh Phú đường, Làng Sông, Thánh Gia, Thiện Bản... phổ biến sách kinh, giáo lý, tu đức, phụng vụ, Kinh Thánh, các loại tự điển và sách giáo khoa.
Năm 1912, công đồng Kẻ Sở cổ võ việc in ấn tài liệu phổ biến cho các tín hữu “bằng tiếng annam kể tích nọ điều kia trong đạo”. Công đồng cũng cổ võ các họ đạo xây trường, “góp công hiệp lực vuối nhau mà lập ra tràng học riêng”, và nhắc các cha xứ, “lo liệu dựng lập những tràng học mở lòng cho các trẻ em nam nữ...”. Chính vì thế sau này, thường cứ bên nhà thờ là có nhà trường, ít là tiểu học.
Về báo chí, có tuần báo “Nam Kỳ Địa Phận” phát hành liên tục 37 năm từ 1908-1945, phổ biến Đạo lý, Phong hóa, Bá nghệ, Bát học và Văn tín, với tôn chỉ “để cho bà con An Nam thông phần đạo,ngoan phần đời”. Giáo phận Qui Nhơn có tuần báo Lời Thăm (từ 1920). Hà Nội có nhật báo Trung Hòa tồn tại 22 năm (1923-1945). Bùi Chu có Đaminh bán nguyệt san, Phát Diệm có Thánh thể báo (1919), Vinh có Đường Ngay (1936) mỗi tháng hai số, Hải Phòng có Văn Côi và Hy Vọng nguyệt san (1937), Huế có nguyệt san Sacerdos Indosinensis (27) (1927-1945) do cố Cadiere Cả phụ trách, và tuần báo Vì Chúa (1936) với ba ngôn ngữ Việt, Hán và Pháp, do cha Nguyễn Văn Thích. Dòng Chúa Cứu thế có Đức Mẹ hằng cứu giúp (1929).
Với giáo hữu, ngoài tờ Công giáo đồng thinh (1927-1930), và tuần báo Công giáo tiến hành (1936-1938), phong trào Thanh Lao Công có báo Công giáo Nam Thanh sau đổi tên là báo Thanh niên (1936-1944) (28)...
Tại các thành phố thì có các trường trung học, góp phần giáo dục thanh thiếu niên. Nhờ sáng kiến của các giám mục, dòng sư huynh Lasan phụ trách các trường Taberd Saigon (1873), Puginier Hà Nội (1894), Pellerin Huế (1904), Giuse Hải Phòng (1906), Giuse Mỹ Tho (1908), Thomas Nam Định (1924), Lui Phát Diệm (1932), Gagelin Bình Định (1932), Adran Đà Lạt (1941), Kim Phước Kontum (1956), và Bình Lợi Quy Nhơn (1957)...
Theo Niên giám 1964, các hội dòng và các giáo xứ đã phụ trách 145 trường trung học với 62.324 học sinh, 1.122 trường tiểu học với 234.749 học sinh. Về bác ái xã hội, Giáo hội chăm lo 58 cô nhi viện với 6.616 trẻ, 48 bệnh viện với 6.453 giường, 35 viện dưỡng lão với 244 cụ, 8 trại phong với 3.465 người và 159 phòng phát thuốc. (29)
Cũng nên biết, Giáo hội Việt Nam từng có ba trường đại học, nhằm góp phần đào tạo nhân tài phục vụ đất nước.
Trước tiên là Viện đại học công giáo Đà Lạt, do các giám mục thiết lập và điều hành năm 1958, với một giám mục làm chưởng ấn, có 5 phân khoa: Sư phạm, Văn khoa, Khoa học, Thần học và Chính trị Kinh doanh (30).
Năm 1970 có thêm hai đại học công giáo tại Sài Gòn. Đó là Đại học Minh Đức do linh mục Bửu Dưỡng sáng lập, có sự cộng tác của các trí thức lương và giáo, hội Minh Trí, với 5 phân khoa: Triết học, Y khoa, Kinh tế thương mại, Khoa học kỹ thuật và Kỹ thuật canh nông. Và Đại học Thành Nhân do các Sư huynh Lasan thành lập và điều hành với khoa Sư phạm Giáo dục, sau thêm ba phân khoa Dầu khí, Thực phẩm, và Nông nghiệp...
Trong Thư Chung hậu đại hội dân Chúa 2010, sau khi nhận định về hiện tình đất nước, Hội đồng Giám mục Việt Nam nhắc nhở các tín hữu bổn phận phục vụ quê hương, thực thi bác ái và góp phần vào công tác giáo dục:
“Là công dân trong một đất nước, người công giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và xây dựng quê hương... Như lời đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ các tín hữu: “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng là người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt” (31).
“Các tín hữu... yêu thương mọi người không trừ một ai, quan tâm phát triển nhân bản và văn hóa, xây dựng công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do tôn giáo qua nẻo đường hiền lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ” (32).
Cũng trong lá thư trên, Hội đồng Giám mục đã kiến nghị: “Chúng tôi đề nghị chính quyền mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo và những người thành tâm thiện chí tham gia vào việc giáo dục học đường “là chìa khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước”. Giáo hội công giáo có thể cống hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình, nhằm đào tạo những con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội... Đồng thời, Giáo hội mong ước các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn thể, giáo xứ cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền quê, đồng hành với giới giáo chức Công Giáo.” (33)
Hiện nay số các trường dân lập trong nước, từ mầm non, tiểu học, trung học và đại học ngày càng tăng, hy vọng kiến nghị trên sớm có ngày thành hiện thực.
(còn tiếp)
Lm. Phanxicô X. Đào Trung Hiệu
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 121 (Tháng 11 & 12 năm 2020)
Nguồn: hdgmvietnam.com
____________________
Chú thích:
(1) Xc. A. De Rhodes, Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Bản dịch Hồng Nhuệ, UBĐKCG Tp HCM 1994, tr 82.
(2) Có thể thêm giai đoạn ba, tùy thuộc người sử dụng
(3) Khác với ngọc nhân tạo, sử dụng đá công nghiệp, hoặc chủ động cấy dị vật vào các loài nhuyễn thể
(4) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr 275. Bộ Khâm Định Việt Sử có 53 cuốn, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn từ 1856 đến 1881, bản Việt Ngữ của Viện Sử Học, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1998, trang 720. Inikhu được nói đến trong Dã lục 33, 6b.
(5) Anh Phanxicô năm 1630, hai thày Ignatio, Vinhsơn cùng các ông Alexi, Simeon, Agostino năm 1645.
(6) Đào Trung Hiệu, Hành Trình Ân Phúc, Chân lý 2013, tr 149-151
(7) Bài “Thời Bảo Trợ và tông tòa” trang 10 - 162
(8) Biện Hòa bị Sở Lệ Vương và Sở Võ Vương mỗi vị chặt một chân, đến Sở Văn Vương mới công nhận. Từ Tần Thủy Hoàng ngọc Biện Hòa trở thành ngọc tỷ truyền quốc của Trung Hoa.
(9) Xc. Mt 13, 24-50. Đức Bênêđictô XVI: Tự sắc Porta Fidei, công bố Năm Đức Tin 2013, các số 1, 13.
(10) Trích bài giảng đức Gioan Phaolô II, lễ tuyên thánh 19-6-1988
(11) Giám mục tổng thư ký Phêrô Nguyễn Văn Khảm chủ biên. Nxb Tôn Giáo 2018.
(12) HĐGMVN, Thư chung 2017, số 5.
(13) A. De Rhodes, Hành trình và truyền giáo. Bản dịch Hồng Nhuệ, UBĐKCG Tp HCM 1994, tr 74.
(14) A. De Rhodes, Hành trình và truyền giáo. Sđd, tr 105.
(15) A. De Rhodes, Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Bản dịch Hồng Nhuệ, UBĐKCG Tp HCM 1994, tr 93.
(16) A. De Rhodes, Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Sđd, tr 57-58.
(17) Gaspar d'Amaral, trong Archivum Romanum Societatis Iesu Jap-Sin. 85, tờ 132. Đào Trung Hiệu, Hành Trình Ân Phúc, Chân lý 2013, trang 69.
(18) Tòa Giám mục Kontum, Khơi nguồn Tiếp bước. Lưu hành nội bộ 2005, Monita ad missionarios, trang 208.
(19) HĐGMVN, Hạnh các thánh Tử Đạo Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2018, trang 16- 18. Đào Trung Hiệu, Hành Trình Ân Phúc, Chân lý 2013, trang 245-247
(20) Phong trào Thánh Nhi (Sainte Enfance) do đức cha Forbin Janson lập năm 1843, nhằm giúp các trẻ em xứ truyền giáo.
(21) Louvet, Sđd II, tr.128.
(22) Sử ký địa phận Trung, Phú Nhai 1916, tr.74
(23) Tòa Giám mục Hà Nội: Công đồng miền Bắc Kỳ, Lưu hành nội bộ 2012, trang 106.
(24) Sau đó là trại phong Thanh Bình (1967) và Phước Tân (1968) ... Hiện nay các trại phong được Nhà nước đảm nhiệm.
(25) Đỗ Quang Chính. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, 1972, tr. 107-129
(26) Linh mục Philipphê Bỉnh (1759-1832) hơn 30 năm ở Bồ Đào Nha viết hơn 21 cuốn sách quốc ngữ, có cuốn đã in, nổi bật nhất là “Sách sổ sang ghi chép các việc”, ấn bản ĐH Đà Lạt 1968.
(27) Sau bảy năm bị đình bản vì chiến tranh, Sacerdos Indosinensis tục bản năm 1952 với danh xưng Sacerdos. Năm 1954, báo đổi tên là Linh mục Nguyệt san, và tồn tại đến tháng 5.1975.
(28) Đào Trung Hiệu, Hành trình ân phúc, trang 179-180.
(29) Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr 506. Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2005, tr 200.
(30) Phật Giáo có hai viện đại học Vạn Hạnh (1964) và Phương Nam (1967). Hòa Hảo có viện đại học An Giang (Long Xuyên 1970): Cao Đài có viện đại học Cao Đài (Tây Ninh 1971).
(31) Đức Bênêđictô XVI, Huấn từ dành cho HĐGMVN nhân dịp Ad limina 2009.
(32) Thư Chung hậu đại hội dân Chúa 2010; TTMV Tgp Tp.HCM 2011, số 33, trang 29.
(33) Thư Chung hậu đại hội dân Chúa 2010; TTMV Tgp Tp.HCM 2011, số 37, trang 32. Luật Tôn Giáo 2018, điều 55 quy định: Các tôn giáo được quyền tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo: