Chữ và nghĩa - Chữ Hiếu
Định nghĩa: Chữ HIẾU được Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh định nghĩa là “hết lòng thờ cha mẹ”. Từ điển tiếng Việt cũng nói tương tự: Hiếu là “lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ”.
Gốc từ: Gốc của chữ HIẾU là Hán tự 孝 thuộc về bộ tử 子 (vì HIẾU = tôn kính cha mẹ). Chữ HIẾU gồm 2 phần: Phần trên là chữ Khảo 考 (già) bỏ bớt nét và phần dưới là chữ Tử 子 (con) => có thể hiểu nôm na là kẻ làm con phải phụng sự cha mẹ = hiếu.
Nội dung: Cha Cadière, qua các nghiên cứu của mình, đã trích dẫn nhiều giải thích về việc thờ kính ông bà cha mẹ: Việc tôn kính bắt nguồn từ lòng hiếu thảo. Một người con có hiếu thì tâm trí luôn nhớ mãi đến cha mẹ mình để khỏi làm những điều đáng trách mà hại đến thanh danh các bậc tiền nhân. Xét như vậy thì việc thờ cúng ông bà cha mẹ xem như một tôn giáo nhưng không phải là tôn giáo. Đây là việc làm nhằm nhắc nhở người sống nhớ đến kẻ chết. Nhiều khi việc thờ kính này chẳng liên hệ gì đến sự bất diệt, cũng chẳng mang hình thức tôn giáo… Riêng cha Cadière, ngài nhìn vấn đề trong toàn bộ và khẳng định rằng: người Việt tin vào sự trường tồn và sự hiện diện thực sự của tổ tiên trong các bài vị, gán cho họ những quyền lực siêu nhiên. Và cha Cadière kết luận: Đối với đông đảo quần chúng người Việt, ông bà vẫn tiếp tục là thành phần trong gia đình và việc thờ cúng họ rõ ràng là đậm nét tôn giáo. Linh mục Trần Phổ (OFM) giải thích tư tưởng cha Cadière: Hẳn cha Cadière biết từ religion dịch sang tiếng Việt là tôn giáo hay đạo. Do vậy, ý linh mục muốn nói việc thờ cúng tổ tiên là một đạo, đạo theo người Việt Nam quan niệm (= đường lối phải theo cho hợp với luân lý xã hội như đạo trời, đạo ông bà, đạo vua tôi, đạo cha con, đạo thầy trò, đạo vợ chồng, đạo làm người…).
Lm. Stêphanô Nguyễn Xuân Dinh, dòng Phanxicô
Nhịp Cầu Tâm Giao 3, NXB Phương Đông (12/2010), tr. 51-52.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB?, 2003.
2. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB?, 1957.
3. Leopold Cadière, Văn hoá, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt - Tập I, NXB Thuận Hóa, 2010. Bản dịch của Đỗ Trinh Huệ.
4. Trần Phổ, OFM, Tín ngưỡng Việt Nam, NXB? 2006.