Tân Phúc-Âm-hoá hay Tân-Phúc-Âm hoá?

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2721 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

1. “Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự


Dưới nhan đề: “Vatican đang nỗ lực khuếch trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr., chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng là phóng viên của đài truyền hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:


Trong một triều đại giáo tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng hành chính, toàn bộ Vatican dưới triều của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ít nhất đã bị buộc chặt vào một điểm: Tính cấp thiết của một cuộc “tân Phúc Âm hoá


Bằng mọi cách có thể, Đức Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm hoá”, hiểu một cách rộng rãi là đánh thức tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội, như là một ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các bộ máy quan liêu, nhưng gần đây ĐTC Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại Vatican một cơ quan hoàn toàn mới để xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá. Ngài đã bổ nhiệm một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy quyền lực, là Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một danh sách thành viên Hội Đồng gồm các vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna, ĐHY Angelo Scola của Venice, ĐHY George Pell của Sydney, và Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan của New York.


ĐTC Bênêđictô cũng đã dành cho Thượng Hội Đồng Giám Mục - một cuộc họp của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ ngày 07-28/10/2012 - sắp tới, một chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo” (1) mà Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình bày trong cuộc họp báo sáng nay tại Vatican”.(2)


Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc năm Đức Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá (3). Hơn thế nữa, trong Sứ điệp dài 4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều kích cơ bản của “nền linh đạo tân Phúc Âm hoá”.


Vài sự kiện nêu trên cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay như thế nào.


Tân Phúc Âm hoá tiếng Anh là New Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao tiếng Việt dịch là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối đạo. Vậy chúng ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như thế nào trong tiếng Việt.


2. Evanglization: Phúc Âm hoá.


Chữ này phát xuất từ động từ Evangelise (truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ Evangel (Phúc Âm).


Chúng tôi đã có dịp bàn tới hai thuật từ Phúc Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và “Missio” đăng trong nguyệt san Bài giảng Chúa nhật (4) và đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo” (5). Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ Evangelizatio và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số 73 (6). Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy ý chính:


2.1. Evangelium (A: Evangel; P: Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo chúng tôi, thuật từ Phúc Âm có nội dung phong phú và sâu sắc hơn, bao hàm mọi điều thiện hảo mà con người mơ ước theo triết lý Đông phương và như vậy có tính hội nhập văn hoá cao hơn.


2.2. Thuật từ Evangelizatio xuất hiện từ thế kỷ XIX và được du nhập vào thần học Công Giáo vào thế kỷ XX (7), đặc biệt từ Công Đồng Vaticanô II . ĐTC Phaolô VI sử dụng từ này với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho lương dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân) (8).


Evangelizatio (Anh: Evangelization; Pháp: Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân loại nên mới" (EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng người, vào cách suy nghĩ, cách hành động của con người, vào các lãnh vực hoạt động như xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế... Nói cách khác là đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong các thực tại trần thế như men ở trong bột. Vì vậy, nếu hiểu cách tổng quát Evangelizatio được thực hiện vừa bằng lời nói, vừa bằng chứng tá đời sống cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với tinh thần Phúc Âm.


2.3. Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá, truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng, việc truyền giáo... Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền giảng, rao giảng, loan báo, loan truyền... không có ý nghĩa tổng quát như chữ “hoá” trong từ Phúc Âm hoá. Là một nguyên vị tiềm tàng (9) giữ vai trò hậu tố từ, "hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần hoặc làm cho trở thành... Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm hay loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng.... thì thuật từ Phúc Âm hoá vừa ngắn gọn, lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn tả ý niệm Evangelizatio thích hợp hơn.


2.4. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là làm cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã cung cấp một định nghĩa khác: “Phúc Âm hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói” (Số 905).


3. Nghĩa các chữ tân, phúc, âm, hoá.


3.1. Nghĩa của tân.


Tân có 12 chữ Hán: 新, 濱 (滨), 津, 賓 (宾), 薪, 辛, 鋅 (锌), 檳 (槟), 莘, 繽 (缤), 獱, 蠙, trong trường hợp này là chữ新. Tân 新là chữ gốc của chữ 薪tân (nghĩa là: củi đuốc, tiền lương). Chữ do辛 tân và 斤cân tạo thành. Trong giáp cốt văn, tân chỉ âm, và cân là cái rìu.


Tân Phúc-Âm-hoá hay Tân-Phúc-Âm hoá?


Tân nghĩa là (dt.) (1) Mới: Thôi trần xuất tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu của Vương Mãng sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4) Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5) Những cái mới: Tân y (áo mới). (6) Những gì mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra). (7) Những người hay vật thuộc về thời gian mới cưới: Tân phòng (phòng cưới). (pht.) (8) Mới bất đầu: Tân tả (mới viết).

Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Xử nữ: Gái tân. (2) Màng trinh: Còn tân.


3.2. Nghĩa của phúc.


Phúc có 9 chữ Hán: 福, 腹, 復 (复), 覆, 輹, 輻 (辐), 蝮, 愊, 鍑, ở đây là chữ福. Trong bài “Evangelium” tôi có phân tích chữ này, nay xin trích lại: “Theo Lục thư (10), chữ phúc (福) thuộc “hình thinh”. Viết bộ thị (示còn đọc kỳ) và thinh bức (畐bị), có nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị (示) và dùng bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn (nghĩa là có đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: trời đất ban xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh 畐. Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận lợi). Chữ phúc (福) đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.” Chữ福 (phúc) nghĩa là (dt.) (1) Những sự tốt lành, Kinh Thi chia ra năm phúc : - Giàu 富 , - Yên lành 安寧,- Thọ 壽, - Có đức tốt 攸好德, - Vui hết tuổi trời 考終命. (2) Điều may: Phúc Âm (tin lành). (3) Thịt phần tế. (4) Rượu tế còn thừa. (5) Họ Phúc. (đt.) (6) Thần bảo hộ, giúp: Phúc hựu. (7) Bộ điệu người nữ ngày xưa chào bằng cách chắp tay đặt ở eo: Đạo vạn phúc (Kính chào). (tt.) May mắn: Phúc tướng (tướng may mắn).


3.3. Nghĩa của âm.


Âm có 11 chữ Hán: 音, 暗, 陰 (阴), 隂, 侌, 瘖, 喑, 蔭, 廕, 荫, 愔, trong mục từ Tân Phúc Âm hoá, Âm là chữ 音, tôi đã từng phân tích chữ này (11): “Âm (音) trong từ phúc âm (福音) có nghĩa là tiếng, tin, thuộc loại “chỉ sự”. Viết chữ ngôn (言, lời ) ngậm dấu ngang (—) là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu ngang, dấu dài đặt ở dưới. Như vậy chữ ngôn (言) phần dưới có chữ khẩu (口), chữ khẩu ngậm dấu ngang (—). Thinh do tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là cái hợp thinh mà được nhịp nhàng hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là âm. Chữ 音 (âm) nghĩa là: (dt.) (1) Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, do không khi làm môi giới mà truyền đi: Tạp âm (tiếng tạp). (2) Giọng điệu: Hương âm (giọng quê). (3) Tiếng đọc của chữ: Chú âm (tiếng ghi). (4) Tin tức, thư từ: Âm tín. (5) Tiếng kính trọng kẻ khác: Đức âm. (6) Họ Âm.


3.4. Nghĩa của hoá.


Hoá có 2 chữ Hán: 化, 貨 (货), chữ cần bàn là chữ化. Hoá (化) có hai hình người, một đứng thẳng, một đứng lộn xuống dưới, giống diễn viên đang làm xiếc hoặc biểu diễn ảo thuật, chỉ nghĩa “biến hoá”. Có những nghĩa mở rộng như “Tạo Hoá”, “tử vong”, và “hoà tan”.

 

 

Tân Phúc-Âm-hoá hay Tân-Phúc-Âm hoá?

 

Hoá có nghĩa là (dt.) (1) Giáo dục: Giáo hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4) Lễ, nhạc, chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6) Thay đổi: Thiên biến vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8) Chết: Vật hoá. (9) Dần dần ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá. (10) Ăn xin: Hoá duyên. (11) Đặt sau danh từ hay tĩnh từ, để chuyển biến trạng thái hay tính chất của vật: (i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn dụ hoá, bần cùng hoá, bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải hoá, cảm hoá, công hữu hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy hoá, chính thức hoá, chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng hoá, điện khí hoá, đồng bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức hoá, khái quát hoá, lý tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức tạp hoá, tập thể hoá, thần bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự động hoá... (ii) làm cho trở thành: cốt hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu hoá, nhũ hoá, nhựa hoá, ion hoá, oxy hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã hoá...


Trong từ Phúc Âm hoá, hoá có vai trò hậu tố từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.


Nghĩa Nôm: Góa: Hoá vợ.


4. New Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?


4.1. Tân Phúc Âm - Đức tin loại gì đây?


Có người thắc mắc: "Nói đến Đức Tin Công Giáo mà nói đến “tân phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin loại gì đây?" - Chúng tôi thử vào Google để tìm kiếm cụm từ "tân phúc âm" và "tân tin mừng", thì không thấy chỗ nào nói Tân Phúc Âm hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá hay Tân Tin Mừng hoá mà thôi!


Thiết nghĩ: Người Công Giáo, dù là tân tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy nhất", và vì duy nhất trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc Âm" hay "Tân Tin Mừng" (12). Thực ra chữ "Tân Phúc Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của Lm. Vũ Kim Chính (13) dùng chữ này để dịch chữ Neo-Evangelism, danh xưng của một giáo phái Tin Lành (14). Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì "Tân Phúc Âm hoá" (nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín đồ Tân Phúc Âm". Nhưng trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ Neo-Evangelism là "Phong trào Tin Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ Tân Phúc Âm.


4.2. Cũng tại thiếu cái dấu...


Tôi nhớ khi cha già Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu - cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn - từ trần, một cha khẩn cấp báo tin cho bạn bè của ngài bên Paris: "DIEU EST MORT"! Các cha bên Pháp đã hết sức kinh ngạc, không thể hiểu nội dung của bức điện nên phải liên lạc hỏi lại... Cũng tại chữ "Điểu" đã viết thành chữ "Dieu" (Thiên Chúa).


Có lẽ ở đây cũng tương tự, từ ghép Tân Phúc Âm hoá có hai cách hiểu về trật tự cấu tạo của nó:


Cách hiểu đúng - Cách hiểu sai