Tín như Trung Nghĩa (Hesed, Loyalty)
Dẫn Nhập
Chữ Tín mang nội hàm ý nghĩa rất đa dạng trong nền văn hóa châu Á lẫn châu Âu. Trong bài viết này, sau khi điểm qua một số ý nghĩa của chữ tín trong các truyền thống dân gian, tác giả sẽ tập trung vào một ý nghĩa khác của tín như là lòng trung tín - ân nghĩa mà truyền thống Do Thái đã ghi khắc trong hạn từ hesed.
1. Trong cái nhìn của Khổng Tử về người quân tử trong chuỗi đức tính[1], nhân đứng đầu, và tín kết thúc. Chữ tín trọng đến độ Khổng Tử đã nói: “Người không tín thì không đứng được ở đời”. Theo ông, tín là nền tảng của phép trị quốc. Có lần Tử Lộ, một đệ tử, hỏi Khổng Tử: “Việc chính trị nên như thế nào?” Khổng Tử đáp: “Đủ ăn, đủ binh và được dân tin”. Tử Lộ lại hỏi: “Trong ba điều ấy, nếu ta phải loại một đi thì phải bỏ cái gì?” Ông nói: “Bỏ binh”. “Nếu hai điều còn lại phải bỏ một, thì nên bỏ cái gì?”. Ông không do dự: “Bỏ ăn, và điều thứ ba phải giữ, bởi mất lòng tin của dân là mất tất cả”[2]. Trong mối tương quan với bạn bè cho dù thân thuộc đến mấy ông vẫn khuyên vẫn phải giữ chữ tín. Hơn hai trăm năm sau, thầy Mạnh Tử[3] còn nói rõ: “Người không có chí sẽ không có trí, người mà lời nói không đáng tin thì hành động cũng chẳng ích gì,” và “một lời hứa đáng giá nghìn vàng, một lời nói trăm nút buộc”, “một lời đã nói ra, xe tứ mã đuổi không kịp”. Truyền thống Khổng học đều nhấn mạnh đến chữ “tín”.
Tín mang tầm quan trọng là thế. Tín và uy đi với nhau. Không có tín sẽ không có uy. Không tín, không uy sẽ không quản nổi xã tắc và nước sẽ loạn[4]. Người có tín như là nhất quán với lời nói, giữ lời, gây tin tưởng nới người khác, trong chính trị[5] cũng như trong thương trường. Tổng thống, nước Mỹ, Washington cũng luôn khuyên nhủ những người thân cận: Nhất định phải giữ lời hứa, không được làm những việc quá sức. Vì vậy chúng ta không nên làm một số việc quá sức hoặc vì lấy lòng mọi người mà khinh suất lời hứa với người khác, kết quả lại không thực hiện như đã hứa hẹn, rất dễ mất chữ tín. Con người rất coi trọng chữ tín, trong quan hệ giữa người và người vô cùng coi trọng chữ tín[6].
Trong công tác huấn luyện người trẻ ngày nay, cha Nguyễn Hữu Tấn[7] trong tác phẩm “Giáo Dục Nhân Bản” còn cho chúng ta một phân tích chữ tín dưới cái nhìn sự chân thành như sau: Chân thành còn được gọi bằng nhiều tên, như thành tín, thành tâm, thành thực, chân thực, ngay thẳng, thật thà, cởi mở. Chân thành là trong thâm tâm, hay đúng hơn là trong tâm hồn. Ta có thế nào thì ngôn hành, điệu bộ, cử chỉ, cũng phải biểu hiện như thế. Theo cách nói bình dân: bụng nghĩ sao nói vậy, không hề giả dối hầu lấy tiếng khen hoặc che giấu cái dở của mình. Người chân thành là người không dối mình, không gạt người; trong cách cư xử, lúc nào cũng tỏ ra thực tâm, thực tình; ở trong gia đình thực hiếu hạnh; ra ngoài xã hội thực tín nghĩa; đối với tổ quốc thực trung thành[8].
Như vậy, chũ tín còn có thể mang nhiều ý nghĩa thiết thực khác.
2. Trong bài viết này, tác giả muốn nhìn một khía cạnh khác của chữ tín. Tín như là trung tín - ân nghĩa (hesed, loyalty). Trung gợi lên một quyết tâm liên quan đến ý chí và nghĩa nói lên một tình cảm vừa yêu thương vừa quý trọng. Trong lịch sử các vị anh hùng Việt Nam, Nguyễn Trãi (1380-1442) nổi bật với lòng trung nghĩa. Một lòng trung thành với vua, một dạ giữ trọn chữ nghĩa với vị đứng đầu một đất nước, cho dù có thể ông không được đối xử như mong đợi. Ngoài ra, nhân vật Quan Vân Trường hay Quan Vũ trong lịch sử Trung Quốc mà tác giả La Quán Trung (~ 1330-1400)[9] đã khắc họa trong tuyệt tác Tam Quốc Diễn Nghĩa cũng gây khâm phục cho nhiều người[10]. Cho dù lịch sử có phê phán ông như là người cao ngạo, nóng nảy, nhưng nhìn chung Quan Vân Trường nổi bật lòng trung nghĩa. Quan Vũ được đánh giá là người dũng cảm phi thường, đứng đầu toàn quân và của ngũ hổ tướng. Ông trọng điều nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tôi trung thành[11]. Dù được Tào Tháo hậu đãi để kéo ông về phe, nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị; theo Lưu Bị nhiều năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ông vẫn một lòng không thay đổi. Tam Quốc Diễn Nghĩa còn kể tình tiết Quan Vũ trọng nghĩa tha cho Tào Tháo khi ông nhận lệnh đón Tào Tháo thua chạy về ở đường Hoa Dung[12].Khí chất người anh hùng đó được giữ trọn vẹn cho tới lúc bị giết[13]. Có thể nói hình ảnh Quan Công là nhân vật tiêu biểu nhất của người quân tử trung nghĩa mà nhiều người, không chỉ Trung Hoa, khao khát đạt tới.
Thời nay, nhà văn Kim Dung (1924-) cũng khắc họa nhiều nhân vật thể hiện cao độ lòng trung nghĩa trong các tiểu thuyết võ hiệp của ông; nhưng có lẽ nhân vật tuyệt diệu nhất thể hiện lòng trung nghĩa này không ai vượt Lệnh Hồ Xung trong bộ tiểu thuyết kiếm hiệp Tiếu Ngạo Giang Hồ (1967)[14]. Đó là nhân vật với tâm hồn luôn bị dằng xé giữa tình yêu, tình thầy trò, giữa cái xấu cái tốt nên không có một ranh giới rõ ràng nào về mặt tính cách[15]. Tuy bị hàm oan và trục xuất khỏi phái Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung vẫn một lòng không chấp nhận gia nhập phái Thiếu Lâm để luyện Dịch Cân Kinh hầu chữa lành bệnh, vì giữ một lòng trung thành tôn kính với sư phụ là Nhạc Bất Quần, cái nghĩa với sư mẫu Ninh Trung Tắc, và tình yêu với tiểu muội Nhạc Linh San. Nói cách chung, đó là một nhân vật không theo một tiêu chuẩn đạo đức nhất định, nhưng là một kẻ sống rất trung nghĩa,chung tình và rất hết lòng vì bạn bè.
Sau đây tác giả muốn trình bày lòng trung nghĩa (hay tín nghĩa) theo truyền thống Do Thái qua chữ hesed[16]:
1. Hesed như là Trung Nghĩa (loyalty):
Phải nhìn nhận là các nhà nghiên cứu Kinh Thánh thường than phiền rằng hạn từ hesed (חֶסֶד) trong Kinh Thánh Hibri thật sự là khó dịch ra một ngôn ngữ khác, vì ta không tìm thấy một sự tương đương, ví dụ trong tiếng Anh. Trong ngôn ngữ Tây phương, hesed có những nghĩa như “tình thân ái” (loving-kindness), “lòng thưong xót” (mercy), “tình yêu kiên định” (steadfast love) và “trung nghĩa” (loyalty) nhưng tìm một ý nghĩa đầy đủ thì cần phải giải thích thêm[17].
a. John H. Dobson, chuyên gia về cổ ngữ Hy Lạp và Do Thái, trong tác phẩm “Learn Biblical Hebrew”[18] dịch hesed là “loyal love, mercy”.
b. Rabbi[19] Harold M. Kamsler đang sống tại Ra'anana, xứ Israel, trong bài báo “Hesed, Lòng Thương Xót hay Trung Nghĩa”[20] đăng trong The Jewish Bible Quarterly, Vol. XXVII:3, đã vận dụng Thánh Vịnh 136, 1 rất quen thuộc đối với người Do Thái và Kitô hữu:
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (hesed).
(PVGK)
Bản tiếng Anh:
“Oh give thanks unto the Lord; For He is good;
For his mercy (hesed) endures forever”.
Trong bản gốc Hibri:
Chữ hesed mà ông quan tâm đến trong Thánh Vịnh 136,1 là ở vị trí số 7. Kamsler cũng chỉ ra rằng Kinh Thánh Bản 70 (Septuagint, thánh Vịnh đánh số 135) dịch ra rằng:
Trong Kinh Thánh bản Hy Lạp 70, hesed dịch ra là to ’eleoV, ở vị trí số 9[21], từ đó người Anh thường dịch là “mercy” hay “compassion” và trong tiếng Việt, chúng ta có thể dịch là lòng thương xót, hay thương cảm. Rabbi Kamsler nhận xét những câu trong Thánh Vịnh 136, hesed mang ý nghĩa thương xót thì rất chuẩn (= các câu 1, 2, 3, 4, 16, 23, 24, 25, 26.) Nhưng còn lại các câu như 10, 15, 17, 18, 21 khó có thể ghi bên cạnh lòng thương xót sau các hành động của Đức Chúa: Người sát hại các con đầu lòng Ai Cập (c. 10); Xô Xuống biển Pha-ra-ô cùng binh tướng (c. 15); Sát Hại bao lãnh chúa hùng cường (c. 17); Tiêu Diệt những quân vương hiển hách (c. 18); Người Chiếm Đất họ, ban làm gia sản (c. 21).
Trong Thánh Vịnh này với bản Hibri, tác giả Thánh Vịnh vẫn dùng một từ là hesed cho tất cả các hành động của Đức Chúa. Kamsler còn nhận xét thêm rất tinh tế rằng, đối với nhiều bản dịch, hesed được dùng chỉ có một chiều từ Thiên Chúa xuống con người[22]. Nhưng trong nguyên bản Kinh Thánh Hibri, không những có những phần nói đến hesed của con người đối với Thiên Chúa mà còn giữa con người với con người, ví dụ như ở 1 Sam 20, 8, chữ hesed cũng được dùng trong mối quan hệ giữa David và Giônathan, nghĩa là giữa người và người. Thật ra, hesed thâm sâu nói đến mối tương quan hỗ tương đặc biệt, giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người với nhau. Dịch ra bằng thương xót (mercy), “thương cảm” (compassion), hay cả “yêu thương” (love) là tiêu hủy khái niệm hỗ tương đó[23].
Chìa khóa để mở ra ý nghĩa đầy đủ của hesed đó là phải nhận ra những thành phần liên quan đến “mối tương quan hỗ tương” và khám phá ra mối quan hệ nào là đầu tiên, sau đó phải xác định thành phần nào là đáp trả trong mối hỗ tương.
Khi Hesed được sử dụng:
(1) Với chủ thể là con người với con ngưòi, nó nói lên những hành động có thể sau:
(i) Tỏ ra mối quan tâm đến và ban phát hồng phúc [24] cho tha nhân.
(ii) Tỏ lòng nhân ái đối với người thấp hèn, người cô thế, người nghèo khổ; (cách chung lòng thương xót)[25].
(iii) Lòng quý mến (affection) hay yêu thương, lòng sùng kính (hiếu kính) của dân đối với Thiên Chúa.
(iv) Biểu lộ dáng vẻ hiền từ dễ thương.
Một ví dụ rõ nét là ở Tv 141, 5:
“Người công chính cứ việc đánh con
và lấy hesed (= lòng trung nghĩa) mà sửa dạy,
nhưng dầu thơm kẻ dữ
con quyết chẳng cho xức trên đầu;
khi chúng làm điều ác, con vẫn luôn cầu nguyện”.
(2) Còn Hesed được sử dụng để mô tả hành động của Thiên Chúa đối với con người:
(i) Sự giải phóng Israel khỏi kẻ thù và những khó khăn.
(ii) Bảo toàn sự sống khỏi tay tử thần.
(iii) Tăng trưởng nhanh chóng đời sống thiêng liêng.
(iv) Giải thoái khỏi tội lỗi.
(v) Giữ trọn giao ước với con người (Abraham, Isaac, Yacob, Môsê).
Vì vậy, thật khó để phiên dịch Hesed ra cùng một hạn từ để chỉ ra cùng lúc hai hành động từ con người và từ Thiên Chúa.
c. Rabbi Kamsler cho rằng trong tiếng Anh hạn từ thích hợp nhất là “loyalty” mà trong bài này ta dịch là trung nghĩa (đúng ra là trung tín và ân nghĩa)[26].
Một ví dụ rất rõ đó là đoạn 1 Samuel 20, 8 đã nói đến ở trên, trong đó hesed được dịch là trung nghĩa (loyalty) thì rất chuẩn. (David nói với bạn là Yonathan, con của vua Saulê, nhân danh giao ước ký kết giữa Giônathan và David): “Xin anh lấy hesed (= lòng trung tín và ân nghĩa) mà xử với tôi tớ anh đây, vì anh đã nhân danh Đức Chúa mà lập giao ước với tôi tớ anh. Nếu tôi có lỗi, thì chính anh hãy giết tôi đi, chứ sao lại đưa tôi đến với cha anh?”
David đã xin Giônathan kiếu từ cho mình khỏi có mặt với Saulê vào buổi lễ ngày rằm mới (Rosh Hodesh), vì vua Saulê tìm cách giết ông. Giônathan quay lại với David và cũng xin David đáp lại và tỏ hesed tới mình cùng hậu duệ của ông ở câu 14-15, nhân danh giao ước đã ký kết giữa David và ông: “Nếu tôi còn sống, thì xin anh lấy hesed (trung nghĩa) mà xử với tôi như Đức Chúa đòi hỏi. Còn nếu tôi chết, thì xin anh đừng dứt bỏ hesed (= trung nghĩa) với gia đình tôi mãi mãi”.
Rabbi Kamsler còn cho ví dụ khác ở Sáng Thế 24, 12, liên hệ đến chuyện Abraham sai người lão bộc về Haran để kiếm vợ cho con mình là Isaac. Khi một quan hệ hỗ tương được thiết lập giữa Thiên Chúa và con người thì con người có thể kêu hesed đến Thiên Chúa: “Người lão bộc cho lạc đà nằm phục ở ngoài thành, gần giếng nước, vào buổi chiều lúc đàn bà con gái ra múc nước. Ông khấn: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Abraham chủ con, xin cho con hôm nay gặp được may mắn, và xin tỏ hesed (= lòng trung nghĩa) đối với ông Abraham, chủ con”.
Khi chú giải hạn từ hesed trong đoạn văn này, J. Dobson viết “làm hesed đó là thi hành tình yêu trung nghĩa đối với kẻ mà ta được nối kết bởi lời hứa giao uớc”[27].
Từ thế kỷ XVIII cho đến nay, trong Do Thái giáo, có một nhóm sống đời chiêm niệm và tụ họp thành Cộng Đoàn được gọi là Hasidim[28], đó là những người trung tín với giao ước Thiên Chúa và muốn diễn tả tâm tình hesed trong đời sống Cộng Đoàn do cảm nghiệm được hesed của Thiên Chúa đối với mình.
2. Thiên Chúa Là Đấng Công Chính, nên Ngài Tỏ Hesed với Dân của Ngài
Có sự phân biệt giữa hai danh xưng của Thiên Chúa: Sự thánh thiện và sự công chính hay chính trực của Ngài. Trong khi sự thành thiện của Ngài nói đến vinh quang rực rỡ trong tất cả sự tinh tuyền nhất, siêu việt nhất, và tách biệt với tạo thành, thì sự công chính (hay chính trực) của Ngài đụng đến chính yếu đức chính trực, lẽ công bằng, sự xét xử và sự công chính hoá của Ngài. Nhưng khi sự thánh thiện Ngài hành động thì con người nghiệm thấy sự chính trực của Ngài hành động trong mối tương quan với con người và muôn dân tộc. Chính vì thế, một đôi khi ta thấy Thiên Chúa uy nghi thánh thiện nhưng Ngài đồng thời là Đấng công chính.
a. Sự Công Chính của Thiên Chúa chính là sự công minh chính trực của Ngài trong hành động. Tiếng Hibri “công chính” hay “chính trực” là “tsedek” hay “tsedaqa”[29]. Một số nhà ngữ học cho rằng tsedek có thể xuất phát từ gốc Arab có nghĩa là “thẳng thắn, ngay lành” và từ đó đưa đến khái niệm về một chuẩn mực. Từ trung tâm của kho tàng khôn ngoan của dân tộc Israel trong Cựu Ước, chúng ta tìm thấy một mối dây nối kết giữa niềm tin vào Thiên Chúa, “Đấng đã nâng lên người nghèo túng từ đống phân tro” (Tv 113, 7) và sự công chính đối với cận nhân[30]. Hạn từ tsedaqa nói lên rất rõ khái niệm chính trực liên quan đến mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người (Ví dụ: Tv 50, 6; Gr 9, 24) và con người với con người (Đnl 24, 13; Gr 22, 3).
b. Như thế, sự công chính không phải chỉ là một nhân đức, mà là một cái gì đó nằm ở ngay trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa là Đấng công chính và chính trực công minh vì Ngài logic với chính Ngài, không phải vì Ngài trả lẽ cho ai mắc nợ Ngài, nhưng đó là một trả lời hesed (= trung tín và ân nghĩa)[31]. Nói cách khác, đó là một sự trung tín với một tình yêu bền vững (Mika 7, 8-20) đắm chìm trong lòng thương xót (Sir 35, 11-24)[32] đối với dân do giao ước Ngài ký kết với dân. Cụ thể khi dân tuyển chọn của Ngài trung thành đối với Ngài, giữ luật và lời của Ngài, Ngài ban cho Đất Hứa[33].
Thấy lòng ông (Abraham) trung tín trước Thánh Nhan, Chúa đã cùng ông lập giao ước, ban cho ông và dòng dõi xứ người Ca-na-an. Lời đã hứa, Ngài giữ vẹn toàn, bởi vì Ngài vẫn luôn công chính (Nehemiah 9, 8).
Lòng nhân hậu của Ngài đối với dân riêng, vì Ngài là Đấng quyền năng, vị vua mà “Bệ ngai vàng” là “công minh chính trực” và “quân tiền phong” của Ngài chính là sự “đầy trung tín và ân nghĩa (hesed)” (Tv 89, 15; Tv 97, 2; Tv 116, 5). Cho nên dân của Ngài có lý do để luôn “nhắc lại lòng trung tín và ân nghĩa (hesed)” Ngài và “dâng