Tư tưởng Lão giáo qua bảy chủ đề (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 1827 | Cật nhập lần cuối: 4/13/2016 11:53:12 AM | RSS

Trước đây, trong thời gian những năm cuối thập niên 70 thế kỷ trước, Hội Đồng Nghiên Cứu Giáo Lý Đại Đạo tại CQPTGL gồm các Ban Nghiên cứu Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Ki Tô giáo, Bahai giáo, Thông Thiên học, Cao Đài giáo, lần lượt nghiên cứu nhiều chủ đề chung để tìm ra chỗ nhứt lý giữa các tôn giáo. Dưới đây là bài đúc kết tư tưởng Lão giáo qua bảy chủ đề nghiên cứu của cố Đạo tỷ Ngọc Kiều (đắc vị Hồng Quang Thánh Nương), thành viên Ban Nghiên cứu Lão giáo biên soạn. (BBT)

I. THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHỨT THỂ

Mọi sự vật trong vũ trụ đều cùng có một bản căn.

Về nguồn gốc phát sinh của vũ trụ thì bản căn là khởi điểm, là tác động đầu tiên vận động vạn vật theo một nguyên lý là nguyên nhân tối sơ của các tác động hỗ tương của vạn vật. Về bản chất thì bản căn là nguyên thủy và vô sanh bất diệt, hoàn bị, phổ biến và vô hình. Về quá trình phát triển thì sự vật trong trời đất do bản căn chuyển hóa không ngừng nhờ hai động lực âm dương đun đẩy đối đãi nhau mãi.

Về bản thể của vạn vật, Đạo đức kinh (ĐĐK) viết: "Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Đạo làm nên sự hiện hữu (hữu: nhứt). Sự hiện hữu này phân làm hai đặc tính đối đãi nhau, giữa hai (nhị) đặc tính này có một đặc tính thứ ba có nhiệm vụ trung gian hòa hợp hai đặc tính trên (tam) để giữ vững thể hiển hiện của sự vật." (Ch. 42)

Vậy thì sự vật hiển hiện là thực tại có được do hậu quả của quá trình chuyển hóa của Đạo, tức bản căn hay bản thể của vạn vật. Tác dụng chuyển hóa ấy gọi là Đức. Vì Đạo vốn không có hình, kịp khi tác động, vận chuyển thành đức, ắt có cái dụng.
Về tính chất của vạn vật, thì ở thế giới hiện tượng, mọi sự vật đều vô thường, đối đãi. "Dưới trời này khi biết đẹp là đẹp thì cái kia là xấu rồi, khi biết lành là lành thì cái kia chẳng lành vậy." (ĐĐK, Ch. 2)

Về giá trị của vạn vật thì theo Nam hoa kinh (NHK): "Vạn vật dữ ngã vi nhất." (Tề vật luận)

Con người là một sinh vật làm chủ tể được muôn loài vì bản tính con người sẵn có mầm thiện. Mầm thiện này là cái điểm mà người lớn như trời đất, vì trời đất và người là một, đều do Đạo sanh cả. "Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một." (ĐĐK, Ch. 25)

Thế nên Tử Huỳnh Tổ viết:

Thiên nhân nhất khí bản lai đồng,
Vị hữu hình hài ngại bất thông;
Luyện đáo hình thần diệu hợp xứ,
Phương tri sắc tướng tức hư không.

Tiên học từ điển (THTĐ, tr. 47)

(Trời người một khí gốc chung đồng,
Bởi có hình hài vướng chẳng thông;
Luyện đến xác thần hòa một thể,
Mới hay đáng vẽ cũng là không.)

Thật vậy, Thiên địa vạn vật nhất thể (Trời người một gốc), thì nếu con người có chí tự rèn luyện đến tột bực sẽ thấy được điểm chung ấy. Thực ra chẳng phải thấy mà đã thành, vì ở mức tuyệt vời ấy sắc tướng là hư không, chỉ còn lại có thần là diệu hợp trong trời đất.

Do đó Âm phù kinh viết:

Thiên tính nhân dã, nhân tâm cơ dã,
Lập thiên chi đạo, dĩ định nhân dã.

(Thiên tính là người, nhân tâm là máy,
Lập ra Đạo Trời, để định người lý tưởng.)


Vậy con người thật là con người nhất thể với Thiên tính. Đạo Trời chính là đường lối vận dụng cái máy nhân tâm để tạo ra con người lý tưởng ấy ngay trong ta.

Tương đồng và tương quan giữa thiên địa người vật.

Đạo là bản thể, nền tảng sanh ra muôn vật, còn đức là hiện thể năng lực nuôi nấng muôn vật, và Đạo vốn không có hình, kịp khi tác động, vận chuyển thành đức ắt có cái dụng.

Như vậy, Đạo nói lên bản thể của Thiên địa vạn vật thì đức phô bày mối tương quan giữa các đối tượng ấy. Mối tương quan ấy vô cùng gắn bó và đều khắp chớ không phải là sự dính líu riêng rẽ của từng nhóm. Gắn bó vì vạn vật là diệu dụng của Đạo đã bày ra. Diệu dụng này là đức, nên mới nói đức với Đạo như bóng với hình. Mà một khi dụng của Đạo đã buông ra thì thiên hình vạn trạng thể hiện. Buông ra được là có đức. Tương đồng nhau vì ẩn Đạo. Bởi thế nên nói tương quan là nói cái công dụng nối liền giữa các đặc thù. Nói tương đồng là nói cái nhất thể bên trong các đặc thù. Nhất thể ấy là Đạo. Tóm lại, Thiên địa vạn vật tương quan, tương đồng vì "Nhất thể tán vạn thù".

Vấn đề quan trọng là nắm lấy căn nguyên của vũ trụ, cái chìa khóa để tìm cho ra nguồn gốc vạn vật mà đường lối con người chung quy là phải khuôn rập theo trời đất, khuôn theo Đạo, mà Đạo thời tự nhiên. Vậy tự nhiên là thế nào?

Tự nhiên là bất đắc bất nhiễm (không vậy không được), là cái thái độ sinh thành của Đạo, giữ gìn muôn vật của đất, vì như NHK đã viết: "Trời không thể không cao, đất không thể không rộng, mặt trời mặt trăng không thể không xoay vần, muôn vật không thể không thỏa mãn sự sanh sản."

Cái "không thể" ấy chẳng phải là cái mất tự do, mà là cái vô tư, không thiên lệch, không vướng mắc. Không thiên lệch, không vướng mắc nên mới phổ biến, mới đồng nhất ở mọi nơi, mọi vật:

Đạo cao cả lan tràn tả hữu,
Cho muôn loài bám víu sống còn;
Dưỡng sinh vạn vật trần gian,
Lặng thinh chẳng có khoe khoang nửa lời.

(ĐĐK, Ch. 34)

Thế nên bắt chước đạo đức của trời đất không gì bằng giữ được tánh tự nhiên theo phương châm "kiến tố, bão phác, thiểu tư, quả dục" (đơn giản, giữ tự nhiên, ít riêng tư, giảm ham muốn).

Được tánh tự nhiên ấy là không còn phân biệt vinh nhục, lợi hại, quý tiện, thân sơ, là giải kỳ phân, là bỏ nhị nguyên, là về nhất nguyên, sống một cùng vạn sự vạn vật. Đó là trạng thái huyền đồng cùng trời đất muôn loài, là thể nhập vào cái Thiên địa vạn vật nhất thể vậy.

II. CON ĐƯỜNG PHẢN BỔN HUỜN NGUYÊN

Vạn vật có nguồn gốc chung gọi là Nhất bổn. Cái gốc chung ấy đã phóng phát ra các nguồn năng lực nuôi dưỡng vạn hữu. Do đó vạn vật hiện thực là do nhất bổn tán vạn thù.

Từ chân lý Thiên địa vạn vật nhất thể, chúng ta nhận định rằng chính trong con người phải có một trung tâm trường cữu và hoàn thiện tuyệt đối mà chung quanh nó là những gì ảo hóa và khiếm khuyết. Trung tâm ấy Lão giáo gọi là đạo tâm, là cốc thần. Vậy phản bổn hoàn nguyên là rời bỏ những gì ảo hóa mê vọng của con người để trở về với bản chất tinh toàn sáng láng. Thế nên các đạo gia chủ trương tu luyện sao cho phàm tâm thoái, chân tâm tiến.

Lão Quân nói: "Ta từ vô lượng nhờ nhìn sâu vào tâm mà tìm được Đạo." Con đường phản bổn không ở đâu xa xôi cả, mà nó ở ngay trong tâm ta, nghĩa là khởi điểm và đích điểm của con đường đều ở trong thân tâm ta. Bởi vậy phản bổn hoàn nguyên là thực hiện một cuộc tiến hóa sau cùng để con người trở nên hàng siêu đẳng sau khi đã trải qua cuộc tiến hóa từ vạn vật càng ngày càng hoàn hảo về thân xác và quan năng.

Theo Lão Trang, trước hết là từ bỏ cái lối tri thức tương đối để tự biết mình, vì "Biết người là trí thức, biết mình là sáng suốt." (ĐĐK, Ch. 23). Chỉ có cách trở về cái nguồn gốc chưa bắt đầu phân hóa ra nội ngoại mới có thể thông suốt được cả nội ngoại. Biết mình là ai, ấy là biết cái ngã tự thân, cái ngã cùng xuất hiện với trời đất như NHK quan niệm: "Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất." (Tề vật luận)

Trời đất với ta cùng xuất hiện, tạo vật với ta là một thể đồng nhất. Cái thể đồng nhất ấy tiềm tàng ở tâm thân ta khi còn là anh nhi hồn nhiên. Do đó, tự biết mình là trở về với tâm hồn nhiên tiền là tập "phục quy ư anh nhi" (ĐĐK, Ch. 28), "Phục quy ư phát" tức là trở về với tuyệt đối, không còn đối đãi nữa "phục quy ư vô cực".

Cái gốc của Thiên địa vạn vật là vô (Thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. – ĐĐK, Ch. 37). Vô là thể của Đạo, khi hiển dương thì tạo ra sự vật làm đối tượng cho tri thức và hành động. Cho nên hoạt động (hữu vi) là phản ứng theo hiện tượng, chỉ giải quyết được các triệu chứng giai đoạn và cái hoạt động ấy lại trở nên một triệu chứng khác làm rắc rối dây chuyền mới cho cuộc đời. ĐĐK viết: "Mình không tranh thì thiên hạ không ai cạnh tranh với mình." Lại viết: "Có làm tất có thất bại, muốn cầm giữ thì bị mất. Thánh nhân không làm nên không bại, không giữ nên không mất."

Tuy nhiên vô vi chẳng phải là không được việc, vì "Trời đất trường cữu, sở dĩ trở nên trường cữu được là vì không tự sinh nên trường cữu được mãi. Bởi thế thánh nhân để thân mình ở sau mà thành thân mình ở trước, bỏ thân mình ra ngoài mà thành ra thân mình còn mãi." (ĐĐK)

Muốn đạt được tư thái ấy, con người phải trở về với tâm hồn thuần phác (phục quy ư phác) sống trong bản thể không tập nhiễm tri thức phân biệt, không chất chứa kinh nghiệm so đo mãi. ĐĐK viết: "Cái có cái không vẫn sinh ra nhau, cái khó cái dễ vẫn thành ra nhau, cái dài cái ngắn vẫn đo với nhau, cái cao cái thấp vẫn nghiêng với nhau, cái trước cái sau vẫn theo với nhau." Ấy là vượt qua các tầng lớp ý thức bên ngoài vào tận tâm hư tĩnh bên trong (phục quy ư vô cực), từ đó có cái biết là biết Đạo Trời, từ đó có cái làm là làm vô vi (vi vô vi) mà làm nên mọi việc.

Khảo sát sự thực hiện phản bổn huờn nguyên là khảo sát các giai đoạn của cuộc tiến hóa từ ngoại cảnh vào trong nội tâm. Giai đoạn đầu tiên, hành giả phải làm chủ được xác thân, ngũ quan, đừng để cho những thú vui giác quan làm tản thần hao khí, đó là thực hiện thiên chân:

Sắc năm màu làm ta choáng mắt,
Thanh năm cung ngây ngất lỗ tai;
Năm mùi tê lưỡi nếm sai,
Ruổi rong săn bắn lòng người hóa điên.
Của hiếm có ngả nghiêng nhân đức,
Khinh giác quan giữ chặt lòng son;
Thánh nhân hiếu lẽ mất còn...
(ĐĐK, Ch. 12)

Hễ đạo mất nặng tình với đức,
Đức không còn lục tục theo nhân;
Hết nhân có nghĩa theo chân,
Nghĩa không còn nữa thay thuần lễ nghi.
Nên nghi lễ là chi khinh bạc,
Cũng là mầm loạn lạc chia ly...
(ĐĐK, Ch.38)

Theo ĐĐK, từ xưa đến nay, tôn giáo đã suy thoái qua năm giai trình: đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ... Giờ đây, muốn tiến tới Trời, tới Đạo, chúng ta cũng phải ngược lại năm giai trình ấy là: lễ, nghĩa, nhân, đức, đạo.
ĐĐK thật ra không coi trọng cái tiểu học, tiểu trí:
Dứt bỏ thánh, khinh thường tiểu trí,
Trong dân gian lợi sẽ gấp trăm...
(Ch. 29)
Rũ tục học sẽ quên lo lắng,
Dạ với ơi khác được bao lăm.
(Ch. 30)
Học nhiều càng lắm rườm rà,
Càng gần đạo cả càng ra đơn thuần.
Giản phân rồi lại giản phân,
Tần phiền rũ sạch còn thuần vô vi.
(Ch. 48)

ĐĐK viết "Vi Đạo nhật tổn" (Ch. 48). Nghĩa là nếu chúng ta đi tìm Đạo tìm Trời, chúng ta phải đi vào con đường rũ bỏ. Chúng ta phải rũ bỏ lòng tư kỷ tư dục. Chúng ta phải rũ bỏ lòng ham lợi ham danh. Chúng ta phải rũ bỏ tà tâm tà niệm. Chúng ta phải rũ bỏ tất cả những gì làm xao xuyến tâm hồn, làm mất tĩnh lặng của tâm hồn. Chúng ta phải rũ bỏ hết mọi nhân dục.

Lý Long Uyên cho rằng: Khi mà nhân dục đã hủy hết, thiên lý sẽ trở nên tuần hoàn. Khi mà tính đã yên như ngọc lưu ly, không còn vấn vương một chút chi ô nhiễm, không còn bợn một chút chi nhơ bẩn, lúc ấy bản thể sẽ hiển lộ rõ ràng, và lúc ấy Vô Cực Chân Nhân mới để lộ dung quang.

Nhìn tổng quát chúng ta thấy rằng "Con đường phản bổn huờn nguyên" vốn là một cuộc tiến hóa tự nhiên của loài người. Chiều đi ra của vạn vật cũng như của con người thật ra không đáng chê trách vì nó theo luật tự nhiên của vũ trụ. Chỉ tại con người bám víu vào nó mới đáng chê trách thôi, và quy luật sinh hóa của vũ trụ bao giờ cũng có hai chiều – một âm một dương – chiều hướng ngoại là chiều căn cốt để phục vụ nhân sinh, điểm tô cho ngoại cảnh, phụng sự xác thân, gia đình, quốc gia, xã hội. Chiều dương là chiều hướng nội nhằm phục vụ tâm linh, cốt tìm ra tinh hoa cốt cách của con người, tìm ra Đạo ra Trời tiềm ẩn trong tâm não mình. Và chặng đường sau cùng này cũng là đích điểm. Đây là giai đoạn huyền đồng sống hợp với Trời với Đạo. Lão giáo gọi thế là vô vi, là đắc nhứt, là thủ trung bão nhất, là trí hư cực, thủ tịnh đốc, là đắc đạo. Tới đây là thành Tiên, đắc đạo, thành Phật, thành Thánh. Tới đây là đạt tới Đạo, tới bản thể tuyệt đối, là trở về với Thiên tâm, với trạng thái thuần phác nguyên thủy.

III. ĐẠO PHỤNG SỰ ĐỜI

Đạo muốn phụng sự được, trước hết phải khai triển tâm đạo nơi con người.

Tâm đạo phụng sự. Đạo gia phụng sự đời trong cái tâm vô kỷ, vô công, và vô danh.

Vô kỷ. Không bao giờ vì ta, xem như không có cái thân ta. ĐĐK viết: "Ta sở dĩ có điều to lớn là vì ta có cái thân, nếu ta khôngcó cái thân thì ta có lo gì. Cho nên chỉ quý thân vì thiên hạ như gởi cho thiên hạ, chỉ yêu thân vì thiên hạ như phó thác cho thiên."
Bởi vô kỷ, vô thân nên thường vô dục. Không tham dục nên không còn chấp cái thiên kiến vụn vặt của tiểu ngã và có được tâm đạo sáng suốt, thấy được cái vi diệu của muôn vật. Đó là: "Cố thường vô dục, dĩ quan kỳ diệu" còn "Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu". Kiếu là vụn mảnh, là hữu vi, là vật chất làm chướng ngại tâm trí và nghị lực.

Bởi vậy, thánh nhân vô kỷ nên không ham muốn, không chuộng những vật hiếm có. (Thị dĩ thánh nhân dục bất dục, bất quý nan đắc chi vật.)

Đối với Đạo gia, danh là cái không có thật, không lâu bền mà còn là đầu mối của điều tai hại. ĐĐK viết: "Đạo vốn là cái mộc mạc không có tên, rồi sau mới đặt ra danh. Đã có cái danh, người ta sẽ có tri thức biện biệt để biết cái danh ấy. Có tri thức biện biệt thành ra khó trị." Như vậy cái danh là đầu mối của sự rối loạn.

"Thế nên thánh nhân đối với thân mình thì để thân mình ở sau mà thành ra thân mình ở trước, bỏ thân mình ra ngoài mà thành ra thân mình còn mãi." (ĐĐK).

Còn đối với thiên hạ thì lấy cái vô danh mà an định: "Vì sự biến hóa mà dục vọng mới lên, ta muốn trấn áp nó bằng cái mộc mạc vô danh sẽ khiến cho người ta không có dục vọng. Không có dục vọng để được yên lặng, thiên hạ sẽ tự yên định." (ĐĐK)

Vô công. Đạo gia có tâm vô công để vi vô vi và sự vô sự. Vô công nên không khoa trương hành động và không bồng bột nhắm ngay vào đại sự. Ngược lại nhắm cái gốc nhỏ bé chưa thành "sự", làm từ cái đơn giản chẳng thấy "công". Thế mà làm được việc lớn không khó gì.

ĐĐK viết: "Làm cái vô vi, phục vụ cái vô sự, lo việc từ khi khó còn dễ, làm việc lớn từ khi còn nhỏ. Việc khó trong thiên hạ tất phải làm từ khi còn nhỏ. Vì vậy thánh nhơn không làm việc lớn mà thành việc lớn."

Do đó, cái tâm vô công có tác dụng nắm giữ, giải quyết mọi việc từ khi các sự việc ấy chưa hiện thực. Ấy là "vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn". Thế nên hạt vô công mà thành công lớn, đất vô công mà thành lâu dài, gót chân vô công mà đi ngàn dặm (Hợp bão chi mộc, sinh ư hào mạt, cửu trùng chi đài khởi ư lũy thổ, thiên lý chi hành, thủy ư túc hạ.)
Đạo gia sống đạo phụng sự.

Tự nhiên. Đạo gia phụng sự đời không phải là bày vẽ thêm cho đời bất cứ điều gì cả, mà chỉ sống tự nhiên và làm theo tự nhiên: "Không chuộng người hiền cho dân khỏi sinh tranh giành. Không quý những vật khó được cho dân khỏi làm kẻ trộm. Không thấy cái gì đáng ham cho dân khỏi loạn. Dứt hẳn sự thánh, bỏ hết sự khôn, thì dân sẽ lợi gấp trăm. Dứt hẳn điều nhân, bỏ hết điều nghĩa thì dân sẽ trở nên hiếu thảo. Dứt hẳn sự khéo, bỏ hết điều lợi, thì trộm cướp sẽ không còn nữa." (ĐĐK)

Làm theo tự nhiên là kéo lại những sự mà người đời đã trót vượt qua, để giúp vào cái tự nhiên của vạn vật mà không xen vào (Phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên nhi bất cảm vi).

Theo cái luật tự nhiên ấy đến mức mình phụng sự mà không ai biết mình phụng sự nên "công thành việc xong trăm họ không ai biết tại đâu, đều bảo mình là tự nhiên" (Công thành sự toại, bách tính giai vị ngã tự nhiên.)

Đạo gia phụng sự đời theo chủ trương: "Bất tranh nhi thiện thắng, nhu nhược thắng cang cường."

ĐĐK theo chủ nghĩa vô vi nên bí quyết thủ thắng bao giờ cũng là tránh hữu vi, lấy cái thuật mềm dẻo mà vô hiệu hóa đối lực cang cường: "Người khéo làm tướng không bao giờ hung hăng, người khéo chiến đấu không bao giờ tức giận, người khéo thắng quân địch không bao giờ tranh với quân địch."

Thật vậy, hung hăng tức giận và tranh với kẻ đối nghịch, bề ngoài là những phản ứng kịch liệt, thậm chí có thể đàn áp được họ, nhưng xét cho cùng, hung hăng tức giận tức là đã thọ thương trước khi chiến đấu. Còn tranh vốn để đối trị với tranh gọi là tương tranh thì sẽ tranh mãi hết đợt này đến đợt khác chẳng bao giờ bất tranh. Cũng như thuốc đối trị chứng, hết chứng này đến chứng khác, thuốc vốn không làm cho vô bịnh được. Do đó, chỉ có bất tranh là bí quyết thắng tận gốc, không có tính cách chống đỡ mà hóa giải ngay từ khi chưa có cái mầm đối nghịch. Nên ĐĐK viết: "Mình không tranh thì thiên hạ không ai cạnh tranh với mình."

Nhưng bất tranh chẳng phải là khinh địch. ĐĐK viết: "Không có cái họa nào to bằng sự khinh địch." Và: "Khinh địch cơ hồ làm mất cái báu của ta."

Cái báu ấy là gì? "Một là nhân từ, hai là tằn tiện, ba là không dám làm trước thiên hạ. Vì nhân từ cho nên mới mạnh, vì tằn tiện cho nên mới rộng rãi, vì không dám làm trước thiên hạ cho nên mới làm trùng trướng của người và vật." (ĐĐK)

Đoạn này Thích Đức Thanh giảng: Đã lấy nhân từ đối với mọi người, thì coi người nào cũng như mình và không còn sự kình địch giữa mình với người, tự nhiên không ai thắng được mình nữa. Như thế tức là mạnh. Đã tằn tiện thì trong lòng lúc nào cũng cảm thấy có thừa, như thế tức là rộng rãi. Đã không làm trước thiên hạ thì sẽ quên hết cả người và mình, chót vót đứng riêng một nơi, thiên hạ thấy vậy sẽ phải coi mình là bậc trên nhứt trong loài người. Như thế tức là trùm tất cả nhân vật. Đó là "bất tranh nhi thiện thắng" vậy.

Còn đem nhu nhược đối với cang cường là cách khắc chế phản lực dội lại tác lực cao cường, khiến cho tác lực kia bị rơi vào khoảng không, đã bị đối phương vô hiệu hóa, chẳng cần chịu đựng chống đỡ gì cả. Ví như quả banh ném đi không dội vào tường mà mất hút qua cửa, ví như viên đạn nằm yên trong cây chuối nước nhưng lại phá nát khúc gỗ lim.

Chính ở chỗ không có kháng lực như thế, Đạo gia ví mình như nước. "Nước không cố vượt lên chỗ cao, mà làm lợi ích cho muôn vật. Nước khéo làm lợi cho muôn vật mà không có tính tranh giành, ở cái chỗ mà mọi người không thích (chỗ thấp), cho nên gần được Đạo." (ĐĐK)

Nước bao dung hết mọi sạch dơ lành dữ nên có vạn năng. ĐĐK viết: "Trong thiên hạ không có cái gì nhu nhược như nước, nhưng dùng để công phá những vật rắn mạnh thì không có gì thắng được nó và không có gì thay được nó. Thánh nhân có nói: Chịu được một sự nhơ nhuốc của một nước thì làm chủ xã tắc, chịu được điều không lành của cả nước thì làm vua thiên hạ." Đó là nhu nhược thắng cang cường vậy.

Tóm lại, tâm đạo là lấy đạo pháp quy chiếu vào con người để làm nổi bật lên các bản sắc của chơn tâm rồi dụng nó làm phương châm hành động, phương châm sống đạo.

Sống đạo là đem bản sắc của chân tâm quy chiếu vào nhân sinh thế sự ứng biến với cuộc đời để đem cuộc sống nhân loại trở vào từ trường đạo đức. Thật ra, đạo phụng sự đời là đem đời vào đạo, chớ không phải đem đạo vào đời. Sứ mạng đạo pháp là vận dụng khả năng tâm linh để tác động vào tâm linh tha nhân và do đó phục vụ tha nhân. Tóm lại, đạo pháp là cái dụng của đạo điều hòa vũ trụ và nhân sinh. Đó là cái trình tự: "Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên" của Lão giáo vậy.

(còn tiếp)

Đạo tỷ Ngọc Kiều

Nguồn: antruong.free.fr/tutuonglaogiao.html