Chữ Tín trong truyền thống Nho giáo

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 3506 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

Chữ Tín trong truyền thống Nho giáoNho giáo là đường lối đào tạo nên những con người cần thiết cho phúc lạc và ổn định xã hội. Vì thế, Nho giáo đã đưa ra một hệ thống đạo lý có khả năng điều hòa tốt đẹp mọi sinh hoạt xã hội, gọi là Ngũ Thường. Ngũ Thường là năm đạo lý thường hằng hay phổ thông bao gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.


Thực ra, Đức Khổng Tử, ông tổ Nho giáo thời Xuân Thu chưa nêu ra tên Ngũ Thường với sự sắp đặt theo thứ tự như thế. Ngũ Thường là danh hiệu được các Hậu Nho đời nhà Hán đặt ra. Tuy nhiên, trong sách Luận Ngữ, Đức Khổng Tử đã nói đến các đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín trong từng trường hợp đối thoại với các môn đệ. Dĩ nhiên, chữ Tín được nói đến nhiều lần trong học vấn của người quân tử, trong tương giao với mọi người và trong đường lối chính trị.

 

1. Chữ Tín trong học vấn của người quân tử:

 

Quân tử là người tài đức, có thể dạy dỗ, làm mẫu mực cho mọi người và có thể lãnh đạo xã hội. Một đất nước càng có nhiều người quân tử, đất nước ấy càng thịnh vượng, an lạc. Vì thế, những người gia nhập Khổng môn đều phải phấn đấu học tập để trở nên người quân tử. Người quân tử có nhiều đức tính, trong đó Tín là một đức quan trọng.

 

Chữ Tín () nghĩa là niềm tin, là giữ điều hẹn ước, kết hợp bởi bộ “Nhân” () và chữ “Ngôn” (); hội ý rằng người có đức tín thì lời nói của người ấy phù hợp với hành vi, nói sao làm vậy, để tạo niềm tin nơi người khác. Ca dao Việt Nam có câu:

 

Nói lời phải giữ lấy lời,

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

 

Câu trên thể hiện rõ đức tín trong Nho giáo.

 

Sách Luận Ngữ có câu: “Tử dĩ tứ giáo: văn, hạnh, trung, tín” - Đức Khổng dạy bốn điều: văn học, đức hạnh, trung thành, niềm tin. (Thuật Nhi, câu 24).

 

Vấn đề “trung tín” còn được giảng rõ trong Kinh Dịch: “Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín sở dĩ tiến đức dã; tu từ lập kỳ thành, sở dĩ cư nghiệp dã” - Người quân tử tiến lên đạo đức, sửa cho sự nghiệp hoàn thành. Trung tín để mà tiến đức, sửa lời nói cho thành khẩn để nên sự nghiệp (Kinh Dịch: Quẻ Thuần Kiền, Văn Ngôn).

 

Tùy cơ hội thuận tiện, Đức Khổng nói rõ thêm về công dụng của chữ Tín. Ngài nói: “Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi. Quân tử tai!” - Người quân tử lấy điều nghĩa làm cội gốc, lấy điều lễ hành động, lấy khiêm tốn phát biểu, lấy niềm tin thành tựu. Thật là bậc quân tử thay! (Vệ Linh Công, câu 17).

 

Trong Khổng môn, các học trò được học về chữ Tín ngay sau khi học về hiếu đễ: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” - Con em vào thì hiếu thảo, ra thì kính nhường, cẩn thận mà giữ niềm tin, rộng yêu mọi người mà gần gũi người nhân đức. Thi hành những điều đó còn thừa sức, thì hãy học văn. (Học Nhi, câu 6).

 

Để thể hiện sự cần thiết của đức tín, Đức Khổng nêu ví dụ: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai?” - Người mà không giữ điều hẹn ước, không biết người ấy có thể ra sao. Xe lớn mà không có đòn gỗ ngang (nghê); xe nhỏ mà không có đòn gỗ cong (ngột), xe làm sao mà đi được? (Vi Chính, câu 22).

 

Cái xe lớn như xe bò phải có đòn gỗ ngang đóng vào hai càng để buộc con bò vào. Cái xe nhỏ như xe ngựa thì cần đòn gỗ cong để buộc ngựa vào. Nếu không có những cái đó, xe lớn, xe nhỏ đều vô dụng. Đòn nghê, đòn ngột cần cho cái xe, thì đức tín cũng cần cho con người trong xã hội. Đức tín là mấu chốt cho mọi người tín nhiệm vào. Người không có đức tín (không tạo được niềm tin) cũng thành người vô dụng.

Vào thời Xuân Thu, có ba loại người mà Đức Khổng cho là ngoại hạng, khó lòng dạy dỗ và không thể dùng được, thì “bất tín” là một trong ba loại ấy. Ngài nói: “Cuồng nhi bất trực; đồng nhi bất nguyên; không không nhi bất tín, ngô bất tri chi hỹ” - Ngông cuồng mà chẳng ngay thẳng; mù mờ mà chẳng thành thực; ngây ngô mà chẳng giữ niềm tin, ta chẳng biết những loại ấy như thế nào? (Thái Bá, câu 16).

 

Trong một trường hợp khác, tuy Đức Khổng không dùng chữ Tín, nhưng ý tứ vẫn hàm nghĩa chữ Tín. Ngài nói với Tử Lộ về con người hoàn toàn: “Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yêu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hỹ” - Thấy lợi mà nghĩ đến điều nghĩa, thấy nguy mà chấp nhận số mệnh, ước hẹn đã lâu mà không quên lời nói trong đời mình, cũng có thể coi là người hoàn toàn. (Hiến Vấn, câu 12).

 

Tuy giữ chữ Tín là quan trọng nhưng đồng thời phải phát triển việc học cho thấu đáo. Đức Khổng dạy Tử Lộ như sau: “Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc…” - Thích đức nhân mà chẳng thích học, điều che lấp là ngu muội. Thích đức trí mà chẳng thích học, điều che lấp là phóng túng. Thích đức tín mà chẳng thích học, điều che lấp là tổn hại… (Dương Hóa, câu 8). Đức tín là khả năng giữ lời hứa để tạo niềm tin nơi mọi người, nhưng phải học cho biết thấu đáo để dè dặt trong lời hứa, kẻo vướng vào lời hứa mà bị tổn hại đến mình.

 

2. Chữ Tín trong tương giao với mọi người:

 

Đức Khổng được người đời biết như một nhà chính trị, một nhà giáo mẫu mực, tha thiết với việc thiên hạ, nhưng ước nguyện của ngài rất đơn giản. Một lần kia, khi Tử Lộ hỏi về ước nguyện của thầy, ngài nói: “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi” - Đem an vui cho người già, đem niềm tin cho bạn bè, đen an ủi cho người trẻ. (Công Dã Tràng, câu 25).

 

Đối với Tăng Tử, một môn đệ xuất sắc của Đức Khổng đứng sau Nhan Hồi, mỗi ngày ông xét mình ba điều: “Vi nhân mưu, nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi bất tín hồ? Truyền, bất tập hồ?” - Mưu việc cho người, có hết lòng chăng? Cùng bạn bè giao thiệp, có giữ niềm tin chăng? Được truyền dạy, có ôn tập chăng? (Học Nhi, câu 4).

 

Thầy Tử Hạ, một môn đệ xuất sắc trong Khổng môn, cũng rất đề cao chữ Tín. Ông nói: “Hiền hiền dịch sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự quân năng trí kỳ thân, dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín; tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hỹ” - Bắt chước người hiền đổi lòng hiếu sắc, hết sức thờ cha mẹ, liều thân thờ vua, cùng bạn bè giao thiệp thì nói có niềm tin; tuy nói là chưa học, tôi ắt cho rằng đã học rồi. (Học Nhi, câu 7).

 

Có lần kia, Tử Trương hỏi thầy về việc đi lại. Đức Khổng nói: “Ngôn trung tín, hạnh đốc kính, tuy Man Mạch chi bang, hành hỹ. Ngôn bất trung tín, hạnh bất đốc kính, tuy châu lý, hành hồ tai? Lập, tắc kiến kỳ tham ư tiền dã. Tại dư, tắc kiến kỳ ỷ ư hành dã. Phù, nhiên hậu hành” - Lời nói trung tín, hành động dốc lòng kính cẩn, dù ở nước mọi rợ, vẫn đi lại được. Lời nói không trung tín, hành động không dốc lòng kính cẩn, dù ở quê hương mình, có đi lại được sao? Đứng thì thấy những điều ấy như xen ở đằng trước. Ngồi xe thì thấy những điều ấy như dựa vào càng xe. Ôi, sau đó mới đi lại được. (Vệ Linh Công, câu 5).

 

3. Chữ Tín trong việc chính trị:

 

Chữ Tín không những chỉ nâng cao nhân cách người quân tử, không những cần thiết trong sự giao thiệp thường tình với mọi người, chữ Tín còn có chức năng rất quan trọng trong việc chính trị. Đức Khổng nói: “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời” - Cai trị nước một ngàn cỗ xe, phải thận trọng trong công việc mà giữ niềm tin, tiêu dùng tiết kiệm mà yêu thương mọi người, sai khiến dân chúng thì phải căn cứ vào thời. (Học Nhi, câu 5). “Kính sự nhi tín” có nghĩa là: phải suy tính cẩn thận, chuẩn bị kỹ càng mọi công việc, phải thành khẩn với dân, không được lừa dối dân thì dân mới rắp tâm thuận theo và sẵn sàng hy sinh khi cần.


Thầy Tử Cống hỏi về chính trị, Đức Khổng nói: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ. Tử Cống viết: Tất bất đắc dĩ nhi khử, ư tư tam giả, hà tiên? Viết: Khử binh”. Tử Cống viết:Tất bất đắc dĩ nhi khử, ư tư nhị giả, hà tiên?Viết: “<