Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín qua thơ văn Việt Nam

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 7518 | Cật nhập lần cuối: 2/7/2016 1:48:58 AM | RSS

Từ những câu ca dao truyền miệng cho đến khi người Việt viết thành thơ, văn... cho chúng ta thấy đường lối giáo dục của cha ông chúng ta đều chú trọng tới: Nhân , Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.

Nhân: cư xử cho có lòng nhân đạo, tình người.

Nghĩa: sống sao cho hiếu thảo với người trên kẻ dưới.

Lễ: cần biết lễ phép, lịch sự với những người quen gặp.

Trí: cố gắng học hành để trở thành người có học, có kiến thức, hiểu biết sâu rộng.

Tín: giữ lời hứa, tín nhiệm người đáng tin, thành thật trung thành trong lời nói việc làm.

Đề tài rộng lớn trong văn chương VN. Bài này chỉ dựa theo ba loại: những truyện ngụ ngôn, báo chí và tiểu thuyết, đưa ra cái nhìn tổng quát về cách dạy con trong gia đình.

VĂN CHƯƠNG TRUYỆN NGỤ NGÔN

Ngay sau thời văn chương bình dân, các tác giả VN ghi tên hay dấu tên viết những truyện kể sinh hoạt gia súc, để khuyên răn người đời, như Lục Súc Tranh Công, Trê Cóc, Trinh Thử...

Truyện ngụ ngôn Trinh Thử của Hồ Huyền Qui kể: Một con chuột bạch góa chồng, nuôi đàn con thơ. Một hôm đi tìm mồi, bị gặp con chó rượt đuổi, chạy vào một hang chuột. Trong hang vốn có đôi chuột sinh sống, hôm ấy chuột cái vắng nhà. Chuột đực cố quyến rũ chuột bạch kỳ được. Nhưng chuột bạch đem ra lý lẽ biện bạch để giữ tiết trinh. Bỗng chuột cái về, nghi hai người có tình ý gì. Chuột bạch hết lời minh oan, thong thả ra về. Chuột cái không tin, đuổi theo tận nhà gây chuyện. Dọc đường chuột cái bị con mèo rượt bắt, nhảy xuống ao. Chủ nhà thương hại vớt lên, giải thích đạo cư xử trong nhà :

Muốn cho yên cửa yên nhà.
Chẳng gì hơn ở thuận hòa cùng nhau (câu 763-764)


Người phụ nữ góa bụa VN luôn ‘‘chính chuyên và đoan trang’’, thờ chồng nuôi con. Điểm son.

Những lo trọn đạo thờ chồng
Chồng sao thiếp vậy, kẻo càng xấu nhau
Hầu mong nát ngọc trầm châu
Lầu cao chẳng quản, giếng sâu chẳng từ
Bận vì một lũ con thơ
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay
Ví đeo tính nước lòng mây
Thì chi chim Việt đỗ rày cành nam
Mấy thu nước mắt chan cơm
Lưng canh, đĩa muối, quải cơm thường lề (343- 352)


VĂN CHƯƠNG BÁO CHÍ & DỊCH THUẬT

Hai tờ báo nổi tiếng, thời thập niên 30, trong văn học VN là Đông Dương và Nam Phong tạp chí;

Tuần báo ‘‘Đông Dương: ra hàng tuần, xuất bản từ 1913-1945, do Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) chủ trương.

Nguyệt san ‘‘Nam Phong: xuất bản từ 1917 đến 1834, được 210 số, do Phạm Quỳnh (1892-1945) chủ trương.

Phạm Quỳnh căn dặn về cách cư xử:

Người ta ở trong xã hội, trong giai đoạn giao tế với nhau, cần phải có lễ phép, dẫu đối với người cao hơn mình, người ngang hàng mình hay thấp kém mình cũng vậy. Kẻ khôn khéo thời tùy nghi mà gia giảm, nhưng bao giờ cũng phải có lễ nhượng mới là người có giáo dục. Nhưng giữ lễ phép không phải tự làm để hạ mình xuống đất hay uốn gẫy mình làm đôi, mới rõ là mình kính trọng người ta. Cách lễ phép như vậy một là giả dối, hai là đê hèn, đều đáng khinh bỉ cả...

Phạm Quỳnh.Cách lễ phép của người mình. (VN Thi Văn Hợp Tuyển. tr. 211)

Sống trong xã hội mỗi người có trách nhiệm xây dựng chung, tùy theo khả năng và kiến thức học hành của mình. ở đời, mỗi người phải gánh một việc. Việc lớn hay nhỏ là theo học thuật và tài đức từng người: sự nghiệp tuy có khác nhau, nhưng cũng có ích chung cho xã hội. Nếu ai cứ riêng mình, không biết đến kẻ khác, như thế gọi là ký sinh (sống nhờ).
(Lời Khuyên Học Trò. Nam Phong tạp chí, số 26. Aout 1919)


VĂN CHƯƠNG TIỂU THUYẾT

Văn chương Tiểu Thuyết do Tự Lực Văn Đoàn khởi xướng. Loại văn chuyển tiếp từ văn viết báo hay văn dịch từ văn chương thơ, truyện đến tiểu thuyết. Tự Lực Văn Đoàn gồm một số nhà văn tân học, đứng đầu là Nhất Linh, với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ.Các nhà văn trẻ muốn ‘‘đổi mới’’ đường lối giáo dục từ ‘‘phải học hành’’ đến ‘‘giao tế trong xã hội’’. Thanh niên ngày nay bất cứ giá nào cũng phải đạt được, biến xã hội hoàn toàn mới. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã viết một loạt tiểu thuyết, với lối văn nhẹ nhàng, nội dung lãng mạng, như: Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Anh Phải Sống, Gánh Hàng Hoa (Nhất Linh). Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Giọc Đường Gió Bụi (Khái hưng). Bên Đường Thiên Lôi, Vàng và Máu (Thế Lữ). Gió Lạnh Đầu Mùa (Thạch Lam). Giòng Nước Ngược (Tú Mỡ).

Ý nghĩa truyện Nửa Chừng Xuân: Hạnh phúc là muốn được thật sung sướng, phải hy sinh cá nhân để mưu hạnh phúc cho người khác.

Trước hết trong gia đình: ‘‘Con ơi, muốn nên thân người, hãy lắng nghe lời mẹ cha’’. Lời chắc nhở trong lời cuối cùng của người qua đời là quan trọng, con cái phải giữ và tuân theo:

- Lẽ dĩ nhiên, ai cũng phải chết, các con không nên buồn. Lúc nào cũng phải vui thì mới đủ can đảm, đủ nghị lực mà sống ở đời. Hai con nên theo gương cha. Cha vui đến giờ cuối cùng. Cha hy vọng các con cũng làm vẻ vang cha, cho linh hồn cha ở nơi chín suối. Cha hy vọng thế nào em Huy cũng học thành tài, và trở nên người hữu dụng cho xã hội. Cha mất đi chẳng có gì để lại cho hai con. Cha chỉ có ba thứ gia bảo này ông cha để lại cho các con, cha truyền lại cho hai con mà thôi. Là giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch, và đem hết nghị lực ra làm việc...
- Em còn nhớ không? (Mai hỏi em)

Huy (em Mai) se sẽ trả lời:
- Em nhớ... em nhớ lắm, em nhớ nên em quả quyết đem hết ra mà làm việc. Nghĩa là bây giờ em phải học đã.
(
Khái Hưng, Nửa Chừng Xuân. tr. 13)

Thời đại nào, người VN vẫn có lòng nhân đạo, thương người. Làm ăn không ra bao nhiêu, nhưng thấy ai túng thiếu cần giúp đỡ, thì sẵn sàng làm, không cầu lợi ích.

Trong Nửa Chừng Xuân, Lộc hai lần giúp chị em Mai-Huy, trả tiền học cho Huy và tiền nhà.

- Vậy cô cứ cầm lấy số tiền này cho tôi bằng lòng. Anh em chỉ nhờ nhau, chỉ cứu nhau trong khi hoạn nạn thôi, chứ lúc bình thường thì hồ dễ ai đã phải cần đến ai, hồ dễ tôi được cái hân hạnh giúp đỡ cô chút đỉnh. Vậy xin cô cứ cầm lấy,đừng nghĩ ngợi gì nữa. (Khái Hưng, Nửa Chừng Xuân. tr. 42)

- Lương chả nhiều mà lại một lúc dám cho chừng kia tiền. Mai vẫn còn cầm bốn cái giấy bạc và cái danh thiếp ở tay, đương nhìn ra xa, ngẫm nghĩ. Nghe cô kia nói thế thì chợt nhớ ra. Mai quay lại lẩm bẩm một mình: Không được! Phải, người ta cho. Người ta thương hại người ta cho. Người ta cho như người ta bố thí cho kẻ nghèo khó (Khái Hưng, Nửa Chừng Xuân. tr. 46).

Lộc xứng đáng đại diện cho thanh niên, những người trẻ, dù có học, thành tài không bao giờ quên ơn sinh thành của cha mẹ. ‘‘Xưa nay Lộc vẫn là con người có hiếu’’ (Khái Hưng. Nửa Chừng Xuân, tr. 106)


Cô Mai, vai chính trong truyện Nửa Chừng Xuân, đại diện cho thế hệ trẻ luôn trung thành với các bậc sinh thành giáo dục.

- Thưa bà lớn, một lời đã hứa thì bao giờ cũng phải giữ. Tôi nói nội ngày hôm nay,thì chắc chắn không phải ngày mai. Bà lớn cứ yên tâm. Trong năm điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bà lớn viện ra ban nãy, có hai điều tôi trọng nhất là: nhân, tín. Bà lớn không lo tôi thất tín...

- Thôi chào cô. Tôi tin cậy ở cô.
(
Khái Hưng, Nửa Chừng Xuân. tr. 192)


Truyện Anh Phải Sống đề cao tinh yêu vợ chồng cần cù làm ăn, dù phải hy sinh mạng sống vì con.

Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu.

Hai người (hai vợ chồng Thức và Lạc) cố bơi, nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...

Bỗng hai tiếng kêu lên một lúc: Trời ơi!

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả thuyền nan lập sấp...

Chồng hỏi vợ:

- Mình liệu bơi được đến bờ không?

Vợ quả quyết: Được!
- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng!
- Được! Mặc em! Mưa vẫn to, sấm chớp dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:
- Thế nào ?
- Được! Mặc em!...
- Em buông ra cho mình vào nhé?

Chồng cười: Không! cùng chết cả
- Lạc ơi! Liệu có bơi được không
- Không!..Sao?
- Không. Thôi đành chết cả đôi

Bỗng Lạc run run khẽ nói:
- Thằng Bò! Cái Nhớn ! Cái Bé! Không! Anh phải sống!

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không còn thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ. (Nhất Linh, Anh Phải Sống, tr. 11-13)

Đường lối giáo dục VN trước sau vẫn trọng nhân bản. Con người từ nhỏ vốn tính tình tốt lành và ngay thẳng, trong môi trường nào của xã hội vẫn giữ được bản sắc ban đầu.

Cách giáo dục xã hội này không xa giáo lý công giáo. Sách Thánh có ghi :

- Ngươi hãy thảo kính cha mẹ hầu ngươi được trường thọ, trên đất Chúa Trời ban cho. (Xh. 20, 12).

- Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ (x. Lc 2, 51)

- Chính Chúa Giêsu nhắc nhở ‘‘Ngươi hãy thờ cha kính mẹ,’’ và nhấn mạng sức mạnh giới răn này của Thiên Chúa (x. Mc 7,8-13)

- Thánh Phaolô dạy: Hỡi con cái, hãy vâng lời cha mẹ trong Chúa. Đó là điều phải. Hãy thảo kính cha mẹ ngươi. Lệnh truyền này là lệnh truyền thứ nhất kèm theo lời hứa: ngõ hầu ngươi được phúc và trường thọ.(Ep 6, 1-3)

Điều răn thứ Tư, trong 10 điều răn: Thảo kính cha mẹ

Hay Linh mục Trần Lục khuyên giáo dân:

Hãy lắng tai nghe lời Chúa hứa
Ai hết lòng thảo hiếu mẹ cha
Sẽ ban phần thưởng này là
Sống lâu dưới thế để mà trả công
Về sau phúc trọng muôn phần
Chúa còn trả lại cùng hẹp chi
Mấy lời hiếu tự phải ghi
Chôn lòng mà giữ chớ khi nào rời.

(Hiếu Tự Ca. Câu 1131-1126)

Phạm Bá Nha

Nguồn: giaoxuvnparis.org