Niềm hy vọng Kitô giáo trong doi song của người tín hữu (2)
(tiếp theo)
III. NIỀM HY VỌNG TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
3.1 Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi loan báo niềm hy vọng Kitô giáo
Tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu và tuân theo mệnh lệnh của Người: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19). Giáo Hội vẫn, đang và sẽ tiếp tục loan báo Tin mừng cho mọi người biết Chúa Kitô; đồng thời, biểu lộ sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại. Qua việc cử hành các bí tích mà tột đỉnh là bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo tỏ bày sự hiện diện của Đấng tác thành công trình cứu rỗi là Chúa Kitô. Tất cả những gì đã được gieo vãi trong tâm hồn con người, trong những nghi lễ và văn hóa đặc thù của các dân tộc, sẽ không bị hủy bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải nhục nhã và con người được hạnh phúc. Như thế, hoạt động truyền giáo hướng tới sự viên mãn niềm hy vọng trời mới đất mới: đưa đoàn dân Chúa phát triển vươn tới mức và thời hạn do Chúa Cha toàn quyền đặt định và cũng nhờ đó, thân thể nhiệm mầu được tăng trưởng đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô (33).
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi. Cộng đoàn này nhận lãnh sứ mệnh đi vào thế giới và ra công làm việc, hướng đến một sự biến đổi sẽ đến. Chính vì việc sai đi này mà niềm hy vọng không bỏ mất hiện tại nhưng là công việc của hiện tại. Thế nên, có thể nói, sai đi cũng là một trong những đặc tính của niềm hy vọng. Hội thánh đi vào thế giới là để cho thế giới này thay đổi và trở nên điều đã được hứa cho nhân loại “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 16). Vì vậy, Hội thánh sống vì, sống với và sống cho thế giới không gì khác hơn là một Hội thánh vì và cho triều đại Nước Thiên Chúa, đồng thời không ngừng dẫn đưa thế giới này đi vào chân trời của niềm hy vọng (34).
Loan báo Tin mừng không khác gì hơn là loan báo và làm cho con người ngày hôm nay hy vọng vào Đấng Tuyệt Đối. Thánh Phêrô khi rao giảng, ngài luôn xác quyết điều này khi ngài nói anh em hãy trả lời về bất cứ lý do mà mình hy vọng (x. 1Pr 2, 13) cho những người muốn đi vào cuộc sống thân tình với Đức Kitô. Quả thực, thế giới này đang đạt được nhiều tiến bộ nhưng vẫn là một thế giới bất toàn, mỏng giòn và tạm bợ. Bởi thế nhân loại cần một tình yêu vô điều kiện, tình yêu này chỉ có thể gặp thấy nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Phục sinh, Người là chính sự sống và là tình yêu (x. 1Ga 4, 8). Giáo Hội không trao tặng cho nhân loại một thứ hy vọng ngắn ngủi nhưng là niềm hy vọng của một đời sống vĩnh cửu vừa hiển hiện trong hiện tại nhưng cũng là vừa trong tương lai đang đến. Chỉ có sự xác tín của niềm hy vọng mới có thể đem lại cho con người sự cam đảm để hoạt động và tiếp tục tiến lên phía trước.
3.2 Đào tạo đức tin cho người Kitô hữu và loan báo Tin mừng vì phần rỗi các linh hồn
Sứ vụ loan báo Tin mừng không chỉ là mang Chúa đến cho những người chưa nhận biết Chúa, nhưng còn cần phải đào tạo và đào sâu đức tin cho người Kitô hữu. Việc đào tạo và đào sâu đức tin cần giúp cho người tín hữu đi vào cuộc sống cá vị và thân tình với Đức Kitô, sống gắn bó và xác tín vào Người. Đồng thời, chúng ta cần giúp người kitô hữu cảm nghiệm, sống và đem đức tin vào chính cuộc sống hiện tại nơi mình đang sống và làm chứng. Nhờ đời sống đức tin gương mẫu của mình, các Kitô hữu phần nào làm chứng và loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa giữa các thực tại trần thế. Nhờ có một đức tin sâu sắc, các Kitô hữu luôn sống trong hy vọng và cảm nhận được hạnh phúc Thiên Quốc trên trần gian này. Đức tin là nhân đức thần linh rất quan trọng để biến đổi thế giới: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em. (Lc 17 1, 6). Sứ vụ loan báo Tin mừng sẽ không mang lại hiệu quả nếu không dẫn đưa các linh hồn trở về với Chúa. Chúa Giêsu đến trần gian không khác gì hơn là vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta (35). Ngài đến để quy tụ con cái của Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. Chỉ có Đức Kitô mới mang lại ơn cứu rỗi cho con người vì “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ (x. Cv 4, 12). Biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người, vì mỗi một người đều được bao gồm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và Chúa Kitô đã vĩnh viễn hiệp nhất chính mình với từng người nơi mầu nhiệm cao cả này.
3.3 Loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh cho con người hôm nay
Đời sống của người Kitô hữu luôn được mời gọi quy hướng về một thực tại duy nhất là Đức Kitô. Do đó, chúng ta có nhiệm vụ sống, tuyên xưng và loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết, sống lại cho người khác như lời Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết trong Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế: phận sự trọng yếu của Giáo hội trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại chúng ta hôm nay là hướng cái nhìn của con người, là hướng dẫn việc nhận thức và cảm nghiệm của toàn thể nhân loại quy về mầu nhiệm Chúa Kitô (36). Rao giảng mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là trọng tâm lời rao giảng của các Tông đồ nhưng còn phải là mục đích của các Kitô hữu vì Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và của tình thương Thiên Chúa (x. Ep 2, 8). Như vậy, qua việc loan báo Chúa Kitô chịu chết và phục sinh, nhờ Người và trong Người, con người hoàn toàn và thực sự được giải thoát khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết, và nhờ Người, Thiên Chúa ban sự sống mới là sự sống thần linh và trường cửu (37) cho tất cả những ai tin và sống hy vọng vào Người.
3.4 Bậc Đáng kính Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận - Chứng nhân của niềm hy vọng
Đức Giáo hoàng Phanxicô trong sắc chỉ công bố năm thánh 2025 với chủ đề những người lữ hành của niềm hy vọng. Ngài nói: Đã là những người của niềm hy vọng thì chúng ta phải làm gì đó, nghĩa là chúng ta phải hành động, như những người Do Thái đã thưa với Thánh Gioan Tẩy Giả? Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì? Đây là một câu hỏi rất hiện sinh luôn gắn liền với thực tại cuộc sống. Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã sống niềm hy vọng cách sống động trong cuộc đời ngài, đặc biệt trong khoảng 13 năm ở tù, trong đó có 9 năm biệt giam. Niềm vui và hy vọng là chính biểu tượng giám mục của ngài. Ngài đã viết rất nhiều sách tu đức và nhiều tác phẩm của ngài được dịch ra nhiều thứ tiếng. Con đường sống tu đức, kinh nghiệm sống của ngài còn được đúc kết trong nhiều tác phẩm để nói lên sự xác tín mạnh mẽ về niềm hy vọng của mình: Đường hy vọng dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, đường hy vọng, chứng nhân hy vọng, những người lữ hành trên đường hy vọng, hy vọng không chán nản, cầu nguyện hy vọng, năm chiếc bánh và hai con cá, niềm vui sống đạo. Nếu ai đã đọc qua những tác phẩm xuất phát từ cảm nghiệm cuộc sống, sẽ thấy ngài là một nhà thần học có tầm nhìn sâu rộng, trong một giai đoạn khó khăn đen tối vô tận, trong những đêm ngập tràn thinh lặng và cô đơn. Nhưng chính nơi đây, Thiên Chúa đã ban cho ngài những giờ phút tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời. Niềm hy vọng của ngài là một đời sống cầu nguyện liên lỉ và dâng Thánh lễ sốt sắng mỗi ngày. Trong tù ngài đã cải trang để cử hành Thánh Lễ, truyền phép trong một bàn tay với vài “giọt thuốc chữa bệnh dạ dày” và bánh thánh giấu trong một lọ chống ẩm. Ngay trong cách thức này, Đức Hồng y cũng sống và kinh nghiệm điều Công đồng Vatican II dạy trong Hiến chế Gaudium et Spes: Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời. Có thể nói: Ngài xứng đáng là bậc thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Cái hay của Đức Hồng y đó là ngài cảm nghiệm rằng: Không phải trường học nhưng chính cuộc sống đào tạo chúng ta. Chính đời sống chứng nhân của ngài, nên được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma năm 2000 mà từ trước đến nay chưa có một người Việt Nam nào có được vinh dự cao quý như thế. Đức Hồng y là mãi là một kiệt tác, một chứng nhân hy vọng của thời đại. Đức Bênêđictô XVI đã ca ngợi ngài trong Thông điệp Spe Salvi – về niềm hy vọng Kitô giáo như sau: Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quý giá: Những lời cầu nguyện của niềm hy vọng. Trong vòng 13 năm tù đày, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu (37). Chính con người cầu nguyện của Đức Hồng y Thuận, niềm hy vọng của ngài và đức tin sống động của ngài được đề cao. Nơi đây Bậc Đáng Kính của Thiên Chúa được nói đến như một người thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate - Về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay đã giới thiệu Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận như bậc thầy của niềm hy vọng. Ngài đã chọn sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu. Ngài nói: Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường. Trong sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2025, Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ca ngợi Đức Hồng y là nhà truyền giáo của hy vọng bởi chính đời sống cầu nguyện bền bỉ. Như thế, niềm hy vọng chính là một lời đáp trả cho hành trình ơn gọi và nên thánh của ngài. Đức Hồng y mãi tấm gương sáng ngời về sống niềm hy vọng cho các Kitô hữu noi theo.
Tác giả: Lm. Phêrô Trần Đình Lương, Giáo phận Bà Rịa
Nguồn: giaophanxuanloc.net
_________
Chú thích:
(33) PHÊNI NGÂN GIANG, OP, Những góc nhìn về niềm hy vọng Kitô giáo qua thần học hy vọng của Moltmann và thông điệp Spe Salvi của ĐTC Bênêdictô XVI, trong thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 69, tr 76.
(34) Sắc Lệnh Truyền giáo Ad Gentes, số 7.
(35) GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990, số 3.
(36) GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990, số 44.
(37) BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 32
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ad Ephesios, 20: PG 5, 661.
2. BÊNÊĐICTÔ XVI, Cánh chung luận, Augustino Nguyễn Văn Trinh., dg., Hà nội, nxb. Tôn giáo, 2013.
3. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg, 2007.
4. BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, 2007.
5. Công đồng Vatican II, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2012.
6. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2010.
7. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Bí Tích Thánh Thể, Vietcatholic., dg., 2003.
8. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990.
9. LM AUGUSTINO NGUYỄN VĂN TRINH, Cánh chung học, Đcv thánh Giuse Sài Gòn, 2000.
10. LM AUGUSTINO NGUYỄN VĂN TRINH, huấn quyền về môn cánh chung học, Đcv thánh Giuse Sài Gòn, 2007.
11. LM ĐA MINH PHẠM XUÂN UYỂN, cánh chung học & năng động lực, Don Bosco Xuân Hiệp.
12. LM PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh IX, Bí tích tình yêu, Học Viện Đa Minh, 2011.
13. LM PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh XIV, Niềm hy vọng hồng phúc, Hà nội, nxb. Tôn giáo, 2016.
14. LM PHAN TẤN THÀNH & MARIA ĐINH THỊ SÁNG, Cánh chung học, Tp. Hồ Chí Minh, 2004.
15. PHANXICÔ, Tông huấn niềm vui và hoan hỷ, 2018.
16. PHANXICÔ, Sắc chỉ công bố năm thánh 2025 - Spes Non Confundit.
17. VICENTE NGUYỄN NHẬT TRỌNG KHANH, Luận văn: chiều kích cánh chung trong bí tích Thánh Thể, 2013.
18. Thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 69, 2015.
19. Thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 75, 2017.