40 câu hỏi tìm hiểu và sống Năm Thánh 2025 (1)

5/5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 12/10/2024 10:09:24 AM | RSS

Theo truyền thống Giáo hội Công giáo, Năm Thánh là một sự kiện lớn thu hút nhiều tín hữu ở khắp năm châu, vì Năm Thánh luôn khắc ghi sâu đậm lòng thương xót của Chúa. Truyền thống này bắt nguồn từ thời Cựu Ước, theo đó Năm Thánh là một thời kỳ hồng ân mà Thiên Chúa ban ơn đặc biệt hơn khi con người mở lòng để canh tân và thống hối.

Dưới đây là một cố gắng nhỏ bé qua hình thức 40 câu hỏi giúp tìm hiểu và sống năm thánh 2025, cùng các câu trả lời dựa trên các tài liệu của Hội Thánh và của nhiều tác giả đăng bài trên Internet.

Cụ thể có hai phần:

(1) Từ câu 1 đến câu 16: nguồn gốc, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thần học của năm thánh.

(2) Từ câu 17 đến câu 40: Về năm thánh 2025.

Ngoài ra, có thể xem phần tham khảo ở cuối.

Xin cám ơn các tác giả về các bài viết.

Xin gởi đến mọi người cố gắng nhỏ bé này, như là chút đóng góp cho việc chuẩn bị năm thánh 2025, năm hồng ân của Chúa và Hội Thánh dành cho nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là những người lữ hành trên đường hy vọng. Xin Chúa chúc lành cho hành trình chúng ta tiến bước, và xin Chúa là mục tử nhân lành luôn ở cùng, đồng hành, chở che và đỡ nâng mỗi người chúng ta.

Xin tín thác hành trình sống năm thánh 2025 của mỗi người cho Mẹ Maria nhân hiền, cho các thánh tử đạo nước Việt Nam, đặc biệt cho hai chân phước trẻPier Giorgio Frasatti và Carlo Acutis sẽ được phong hiển thánh trong năm thánh 2025.

Chúng ta cũng xin vị linh mục tốt lành mới được toà thánh công nhận cuộc tử đạo của ngài là cha Trương Bửu Diệp cầu cho chúng ta.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

1. Năm Thánh có nguồn gốc từ đâu?

Trong tài liệu của Bộ Loan Báo Tin Mừng về “Sống năm cầu nguyện để chuẩn bị cho năm thánh 2025” có viết: “Việc cử hành Năm Thánh có nguồn gốc xa xưa nhất trong truyền thống năm thánh (yobel) của Do thái, là thời gian của tha thứ và hòa giải.

Kể từ thế kỷ 14, đây là thời gian đặc biệt để suy ngẫm về ân ban lớn lao của lòng Chúa thương xót vốn luôn chờ đợi chúng ta, cũng như tầm quan trọng của việc hoán cải nội tâm. Cả hai đều cần thiết để có thể sống các ân ban thiêng liêng tuôn đổ trên những người hành hương trong Năm Thánh, và để canh tân mối gắn kết tất cả những người đã lãnh Phép Rửa thành anh chị em trong Chúa Kitô, với toàn thể nhân loại, trong đó mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương”.

2. Bao lâu một lần dân Do Thái có năm thánh và dựa vào đoạn Lời Chúa nào?

Chúa nói với Môsê: “Các ngươi sẽ công bố năm thứ 50 là Năm thánh, và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ 50 sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một Năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng. Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình” (Lv 25,8-13. Xem thêm Lv 25,1-28; 27,16-24. Xh 23,10-11; Ds 36,4; Đnl 15,1-6).

Tất cả những việc làm trên là nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Cứ sau 49 năm thì toàn dân Do Thái phải mừng năm thứ 50 một cách trọng thể. Rõ ràng, truyền thống Năm Hồng Ân này là sự mở rộng luật Sabát của người Do thái là trong một tuần 7 ngày, sau 6 ngày làm việc phải có 1 ngày nghỉ ngơi để thờ phượng Thiên Chúa.

3. Năm toàn xá được sống dưới ánh sáng của ba nguyên tắc. Ba nguyên tắc đó là gì?

Việc đầu tiên liên quan đến sự nghỉ ngơi của đất đai: Đồng ruộng phải bỏ hoang (Lv 25, 11). Nguyên tắc thứ hai liên quan xoá nợ và thu hồi đất (Lv 25,23-34). Cuối cùng, điều thứ ba liên quan đến tự do và giải phóng nô lệ: mọi người Israel – nếu là nô lệ – phải được tự do (Lv 25,35-55).

4. Xin cho biết nguyên tắc thứ nhất “kỳ nghỉ của đất đai”có ý nghĩa như thế nào?

Trên tờ L’Osservatore Romano, Đức hồng y Ravasi, học giả Kinh Thánh, truy tầm nguồn gốc của Năm Thánh từ Cựu Ước đến các Tin Mừng đã giải thích như sau:

Theo bản văn Kinh thánh, chủ đề khá nguyên thuỷ là “kỳ nghỉ ngơi của đất đai”. Với lịch trình nghỉ, thời gian được đo theo truyền thống Kinh thánh, đất đai được phép nghỉ ngơi bảy năm một lần. Từ những chỉ dẫn của chương 25, sách Lêvi: đất đai cũng phải nghỉ ngơi trong Năm Thánh, kéo dài bảy tuần trong năm, tức là vào năm thứ năm mươi. Cam kết này có vẻ khá phi thực tế và khó áp dụng. Có thể để đất đai nghỉ ngơi trong một năm, đặc biệt là trong một nền văn minh như vùng Cận Đông cổ đại, nơi nhu cầu ít hơn nhiều so với chúng ta và cuộc sống đơn giản hơn nhiều. Nhưng để đất đai nghỉ trong hai năm liên tiếp (năm nghỉ thứ 49 và năm thánh – năm thứ 50), trong một nền kinh tế thuần nông sẽ làm cho cuộc sống của họ rơi vào khủng hoảng. Vì vậy, hoặc Năm thánh được thực hiện trùng với năm thứ bảy của tuần thứ bảy, hoặc Năm thánh là một sự thực thi cụ thể – trên hết là một cột mốc, hơn là một dấu chỉ không tưởng, một cái nhìn vượt ra ngoài lối sống thông thường. Để đất đai được nghỉ có nghĩa là sẽ không gieo hạt và không gặt hái. Một mặt, sự lựa chọn này khiến chúng ta khám phá ra rằng, đất đai là một món quà, bởi vì, ngay cả khi với diện tích nhỏ hẹp, đất đai vẫn có thể tạo ra một thứ gì đó. Hoa trái của nó sẽ ít hơn nhưng sẽ không thiếu.

Do đó, nên nhớ rằng các chu kỳ của tự nhiên không chỉ phụ thuộc vào công việc của con người mà còn phụ thuộc vào Đấng Tạo Hóa. Điều này nhắc nhớ chúng ta về một Đấng tối thượng, Đấng Siêu việt. Mặt khác, trong thời kỳ này đã có nỗ lực nhằm vượt qua quyền sở hữu tư nhân và bộ lạc, vì mọi người đều có thể thu lấy những gì mảnh đất đó tạo ra mà không cần lưu tâm tới ranh giới và hàng rào đã được đăng ký trong sổ sách. Trên thực tế, điều này cho thấy sự thừa nhận mục đích chung của của cải, theo đó mọi thứ đều dành sẵn cho mọi người. Chủ đề này cũng có thể có ý nghĩa to lớn trong xã hội ngày nay. Trong đó, nhân loại có thể được minh hoạ như một chiếc bàn bày sẵn, trong đó một bên là những người tích lũy của cải quá mức, còn bên kia là những người còn lại, một đám đông đứng nhìn và chỉ có thể tận hưởng những thứ vụn vặt, vụn bánh. Không gì hơn là ý tưởng: của cải dành cho tất cả mọi người đi trước sự sở hữu của bất kỳ cá nhân nào.

5. Nguyên tắc thứ hai là “xoá nợ và thu hồi đất” có ý nghĩa gì?

Đức hồng y Ravasi giải thích: Chủ đề thứ hai, không kém phần nguyên thuỷ, là việc xóa nợ và hoàn trả nguyên vẹn (cho chủ sở hữu ban đầu) những mảnh đất bị chuyển nhượng và bán đi. Theo lối nhìn của Kinh thánh, đất đai là tài sản không phải của cá nhân mà của các bộ lạc và gia đình thị tộc, mỗi bộ tộc đều có lãnh thổ riêng của mình. Nó đã được tặng hiến trong quá trình phân chia đất đai nổi tiếng sau cuộc chinh phục Canaan, như chúng ta đọc trong sách Giôsuê (cc.13-21). Vì nhiều lý do khác nhau, mỗi lần gia tộc bị mất đất sở hữu của mình, theo nghĩa nào đó sự phân chia đất đai thất bại theo ý muốn của Thiên Chúa. Với Năm thánh, tức là cứ nửa thế kỷ một lần, bản đồ miền đất hứa lại được vẽ lại theo Ý của Thiên Chúa, thông qua món quà thiêng liêng, đất đai được chia cho các bộ tộc Israel. Khi đó, mọi bộ tộc đều nhận được phần đất của mình, ngoại trừ bộ tộc Lêvi, những người sống nhờ vào sự đóng góp của các bộ tộc khác để phục vụ Đền thờ. Đối với các khoản nợ, về cơ bản cũng diễn ra tương tự như vậy. Vào đầu Năm Thánh, mọi người đều bình đẳng, có cùng một ít của cải như nhau. Tuy nhiên sau đó, một số người mất đi tài sản của mình do bất hạnh, số khác là do lười biếng hoặc không có khả năng. Sau năm mươi năm, người ta quyết định quay trở lại điểm xuất phát, đảm bảo rằng mọi người đều được chia sẻ của cải tương tự nhau tuyệt đối. Tất cả tài sản trở thành của chung và được phân phối theo các bộ tộc khác nhau.

Như vậy, mỗi gia đình đã lấy lại được tài sản, đất đai và tất cả con cái của mình. Theo lời kêu gọi từ sách Đệ Nhị luật, sự đổi mới xã hội này liên tục được đưa ra với người Do Thái để họ có thể coi đó là mô hình xã hội để sống theo, bất chấp ý thức rằng, đó là một dự án lý tưởng không bao giờ có thể đạt được một cách trọn vẹn. Thật vậy, trong sách Đệ nhị luật, chúng ta đọc: “Tuyệt nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo […] và nếu trong anh em có người nào đang túng thiếu, thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng” (15,4.7 ). Một sự lựa chọn không chỉ là sự gắn bó lý tưởng với tình huynh đệ và tình liên đới mà còn bao hàm cụ thể của “bàn tay”, tức là hành động, sự dấn thân xã hội cụ thể. Chúng ta hãy nhớ lại chân dung của cộng đoàn Kitô giáo ở Giêrusalem, nơi đó – như thánh Luca nhắc lại nhiều lần trong sách Công vụ Tông đồ – “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.” (4,32).

6. Nguyên tắc thứ ba nói về tự do và việc giải phóng nô lệ. Xin cho biết ý nghĩa của nguyên tắc này!

Đức hồng y Ravasi giải thích: Chủ đề thứ ba của Năm Thánh theo Kinh Thánh cũng là lời kêu gọi mạnh mẽ và đầy thách đố. Năm Thánh là năm không những xóa bỏ các khoản nợ mà còn là năm giải phóng nô lệ. Sách Êdêkien (46,17) nói về Năm Thánh là năm giải phóng, năm cứu chuộc, năm mà những người đã ra đi làm nô lệ để sống sót trong cảnh nghèo khó được trở về nhà, được tha nợ và được hoàn lại đất đai và phục hồi sự tự do của họ. Họ lần nữa trở về tình trạng của một dân tộc từ trong cuộc lưu đày, những người thoát khỏi tấm áo choàng sắt của chế độ nô lệ và phân biệt đối xử. Cũng nằm trong dòng ý nghĩa ấy, đó là đưa ra lý tưởng kiến tạo một cộng đồng không còn có ràng buộc mang tính nô lệ, chân tay không còn bị xiềng xích và có thể đoàn kết hướng tới một mục đích chung. Rõ ràng là tính chất của nó cũng có thể áp dụng cho lịch sử của chúng ta, trong đó vô số hình thức nô lệ được ghi lại: nghiện ma túy, buôn bán gái mại dâm, bóc lột trẻ em ở nơi làm việc hoặc tình dục, khiêu dâm trẻ em và nhiều hình thức nô lệ tàn bạo khác. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến tất cả những dân tộc, trên thực tế, họ là nô lệ của các siêu cường bởi vì với những khoản nợ của mình, họ hoàn toàn không có khả năng trở thành người quyết định cho vận mệnh của chính mình; hoạt động của một số công ty đa quốc gia thường là một hình thức chuyên chế kinh tế thực sự nhằm đàn áp một số quốc gia và xã hội khác.

Do đó, âm vang chủ đề Năm Thánh của sự giải thoát cũng có ý nghĩa lớn lao trong thời đại chúng ta, và điều này cũng đúng khi xét đến lời kêu gọi giải phóng để có được sự tự do nội tâm. Thật vậy, một người có thể tự do bên ngoài nhưng lại là nô lệ bên trong với những sợi xích vô hình nhất định, chẳng hạn như chịu sự chi phối xã hội của truyền thông đại chúng, sự hời hợt, thô bạo, sự lệ thuộc vào thế giới thông tin. Trong đoạn Kinh thánh Giêrêmia 34,14-17, vị ngôn sứ giải thích một cách mạnh mẽ về sự sụp đổ và trở thành nô lệ của Giêrusalem và Giuđê đối với người Babylon vào năm 586 tCN. Đó chính là sự phán xét của Thiên Chúa về việc người Do Thái đã không giải phóng nô lệ nhân dịp Năm Thánh. Tính ích kỷ trở thành điều chi phối toàn bộ, trong khi sự giải phóng đã không được thực hiện, và kết quả là Israel trở thành nô lệ như một loại hình phạt từ Thiên Chúa.

7. Năm Thánh có một giá trị ngôn sứ như thế nào?

Đức hồng y Ravasi giải thích: Năm toàn xá có thể có một giá trị ngôn sứ sâu sắc: sẽ có một thời điểm mà Thiên Chúa muốn giải phóng con người khỏi mọi tình trạng nô lệ (tội lỗi, bệnh tật, cái chết, chế độ nô lệ, v.v.), bao gồm cả quyền sở hữu và của cải.

Trong hội đường Nazareth – như đã nói ở trên – Chúa Giêsu lấy đoạn Is 61,1-3d: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” ( Lc 4,18-19).

“Năm hồng ân của Chúa” là năm toàn xá, là thời gian của Đấng Messia, nơi lời ngôn sứ Cựu Ước trở thành sự thật trọn vẹn. Chính Chúa Giêsu, Đấng muốn lòng thương xót chứ không lễ tế (Mt 9, 13; 12, 7), đã khẳng định điều này: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” ( Lc 4, 21). Vì thế, Năm Thánh trước hết là năm hồng ân của Chúa Giêsu Kitô.

8. Chúa Giêsu có đề cập đến năm thánh không và cụ thể như thế nào?

Đức hồng y Ravasi giải thích: Theo Tin Mừng Luca, khi bắt đầu rao giảng công khai, Đức Giêsu bước vào hội đường nhỏ làng Nazareth của Người. Vào một ngày Sabát, người ta đọc một đoạn Kinh thánh của Is 61, đến lượt Người công bố và bình luận về bản văn. Qua những lời này, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là người được Chúa Cha sai đến để khai mở một Năm Thánh trọn vẹn kéo dài suốt các thế kỷ tiếp theo và là năm mà các Kitô hữu phải cử hành trong Thần khí và Sự thật: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” ( Lc 4,18 -19).

Ngoài Cựu Ước, đây là nguồn gốc khác của Năm Thánh Kitô giáo. Theo lời của Đức Giêsu, phạm vi của Năm Thánh trở thành mô hình, lối sống của đời sống Kitô hữu, mở lòng và đón nhận tất cả những đau khổ vốn là chương trình thuộc sứ mạng của Đức Kitô và Giáo hội. “Năm hồng ân của Chúa”, nghĩa là năm cứu độ của Người, bao gồm bốn cử chỉ căn bản.

Đầu tiên là “Đem Tin mừng cho người nghèo khó”, sự giải phóng là yếu tố thứ hai của Năm Thánh, thứ ba là phục hồi “ánh sáng cho người mù loà” và thứ tư là việc giải phóng khỏi sự áp bức.

9. Xin giải thích thêm ý nghĩa của cử chỉ đầu tiên “Đem Tin mừng cho người nghèo khó”!

Đức hồng y Ravasi giải thích: “Đem Tin mừng cho người nghèo khó”: động từ tiếng Hy Lạp (tiếng Ý: evangelizzare) vốn là động từ xuất phát từ danh từ Tin mừng (evangelo), “tin mừng”, “thông điệp vui mừng” về Nước Thiên Chúa. Những người tiếp nhận là “người nghèo”, nghĩa là, những người rốt cùng của trái đất, những người không có sức mạnh quyền lực chính trị và kinh tế nhưng có trái tim rộng mở để đón nhận và gắn bó với đức tin. Năm Thánh có mục đích mang về trung tâm Giáo Hội những người khiêm nhường, nghèo khó, khốn khổ, những người cả bên ngoài lẫn bên trong phó mình vào bàn tay của Thiên Chúa và của anh em.

10. Cử chỉ thứ hai là “sự giải phóng”. Xin giải thích về cử chỉ này!

Đức hồng y Ravasi giải thích: Sự giải phóng là yếu tố thứ hai của Năm Thánh, một hành động – như chúng ta đã thấy – đã có trong Năm Thánh của Israel. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đề cập đến các tù nhân theo một nghĩa chặt chẽ và ẩn dụ, và ở đây chúng ta dự đoán những lời này mà Người sẽ lặp lại trong cảnh phán xét ở cuối câu chuyện: “Ta ở tù và các ngươi đến thăm viếng” ( Mt 25,36).

11. Cử chỉ thứ ba là “phục hồi ánh sáng cho người mù loà” có ý nghĩa gì?

Đức hồng y Ravasi giải thích: Dấn thân thứ ba là phục hồi “ánh sáng cho người mù loà”, một cử chỉ mà Đức Giêsu thường thực hiện khi Ngài còn tại thế: chúng ta có thể nghĩ về câu chuyện nổi tiếng về người mù bẩm sinh (x.Ga 9). Theo Cựu Ước và truyền thống Do Thái, đây là dấu chỉ cho thấy Đấng Mêsia sắp đến. Thực ra, trong bóng tối mà người mù bị bao phủ không chỉ có biểu hiện của nỗi đau khổ tột cùng mà còn có một biểu tượng. Thật vậy, có một sự mù loà bên trong mà không giống với sự mù lòa thể xác. Đó là không có khả năng nhìn sâu bằng con mắt của trái tim và tâm hồn. Một sự mù loà khó xóa bỏ, có lẽ còn hơn cả sự mù loà thể xác, đang trói buộc nhiều người vốn cần một tia sáng chiếu toả vào tâm hồn họ.

12. Cử chỉ thứ tư là việc giải phóng khỏi sự áp bức có ý nghĩa gì?

Đức hồng y Ravasi giải thích: việc giải phóng khỏi sự áp bức được đề xuất, không chỉ là chế độ nô lệ nói trên liên quan đến Năm Thánh Do Thái mà còn bao gồm tất cả những đau khổ và sự dữ áp bức thể xác và tinh thần. Tất cả đều được biểu lộ nơi toàn bộ sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Do đó, mục tiêu lý tưởng của Năm Thánh đích thực của Kitô giáo là bộ tứ thiêng liêng, luân lý và hiện sinh này.

13. Năm Thánh Kitô giáo được cử hành đầu tiên vào năm nào và Đức Giáo Hoàng nào công bố năm thánh đầu tiên đó?

Năm Thánh Kitô giáo đầu tiên được cử hành vào năm 1300, theo ý muốn của Đức Giáo hoàng Boniface VIII với sắc lệnh Antiquorum habet Trust relatio.

14. Bao lâu thì Giáo Hội tổ chức Năm Thánh một lần?

Đức Boniface VIII quy định năm Thánh được cử hành 100 năm một lần. Từ năm 1350, Đức Giáo Hoàng Clement đã quyết định tổ chức Năm Thánh Kitô giáo cứ 50 năm một lần để gắn bó với Năm Thánh của người Do Thái. Vài năm sau, Đức Giáo Hoàng Urban VI (1378-1389) đã bớt khoảng thời gian này xuống còn 30 ba năm (bằng với thời gian người ta tin rằng Chúa Giêsu đã sống). Đức Giáo Hoàng Phaolô II vào năm 1470, khoảng một thế kỷ rưỡi sau Đức Boniface VIII, tiếp tục giảm thời gian giữa các năm thánh xuống còn 25 năm.

15. Gần đây có những năm thánh chính thức nào?

Năm Thánh 1950

Năm Thánh 1950 do Đức Giáo hoàng Piô XII khai mạc sau những đau thương tàn khốc của Thế chiến II. Hòa bình là sứ điệp của Năm Thánh 1950. Châu Âu bị phân làm 2 khối Tự do và Cộng sản nên những người Công giáo tại Đông Âu Cộng sản không thể đến Roma tham dự Năm Thánh. Cũng trong Năm Thánh này, tại quảng trường Thánh Phêrô với sự hiện diện đông đảo của khoảng 500.000 tín hữu và 622 Giám mục, Đức Thánh Cha đã công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Năm Thánh 1975

Năm Thánh 1975 được mở ra dưới triều thánh Giáo hoàng Phaolô VI. Năm Thánh này mang ý nghĩa Canh tân và Hòa giải, như được trình bày trong tông huấn Gaudete in DominoHãy vui mừng trong Chúa của ngài. Điểm nổi bật của Năm Thánh 1975 là cử hành trước tại các Giáo hội địa phương từ lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 10/6/1973 và kết thúc vào lễ Giáng Sinh 1974.

Năm Thánh 1975 là Năm Thánh cuối cùng trong lịch sử Giáo hội với việc Đức Giáo hoàng khai mạc bằng cách đập búa vào tường che Cửa Thánh ở Đền thờ Phêrô. Khi kết thúc Năm Thánh 1975, Thánh Phaolô VI đã không còn tiếp tục truyền thống xây tường gạch che phủ Cửa Thánh nữa.

Năm 1975 cũng nằm trong bối cảnh khủng hoảng ơn gọi linh mục, do đó sự kiện đã khơi dậy mối quan tâm mới đến vai trò của Giáo hoàng, trong một viễn tượng truyền giáo được phục hồi bởi tông huấn Evangelii Nuntiandi, một văn kiện được Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn.

Năm Thánh 2000

Trong tinh thần hướng đến Thiên niên kỷ III đang đến và đánh dấu 2000 năm biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người, từ năm 1994 thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Tông thư Tertio Millennio AdvenienteNgàn Năm thứ Ba đang tới, để kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón nhận ân sủng cao quý Thiên Chúa ban cho trong Đại Năm Thánh 2000. Ngoài ra, trong ba năm chuẩn bị gần:1997, 1998, 1999, tín hữu cũng được mời gọi học hỏi các chủ đề Chúa Con, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha.

Vào ngày 29/11/1998, tức Chúa Nhật I Mùa Vọng, Đức Giáo hoàng đã ban hành Tông sắc Incarnationis MysteriumMầu Nhiệm Nhập Thể chính thức công bố sẽ mở Năm Thánh 2000 bắt đầu vào Đêm Vọng Giáng Sinh 24/12/1999 và kết thúc vào ngày Lễ Hiển Linh 06/01/2001. Năm Thánh được cử hành cùng lúc tại Roma và các Giáo hội địa phương. Chủ đề của Năm Thánh 2000 là Thiên Chúa Ba Ngôi, Bí Tích Thánh Thể và sự hiệp nhất. Năm Thánh 2000 là Năm Thánh đầu tiên chính Đức Giáo hoàng mở Cửa Thánh cả bốn Đền thờ lớn tại Roma.

Năm Thánh 2000 được ghi dấu nhiều cử hành lịch sử của thánh Gioan Phaolô II; như chuyến tông du đến Thánh Địa theo dấu chân Chúa Kitô; cử hành việc tôn kính tất các vị Tử Đạo của tất cả các Giáo hội Kitô tại đấu trường Colosseo; hoặc một lần nữa, vào ngày 12/3/2000, một cử hành sám hối tại Đền thờ Thánh Phêrô vì những sai lỗi trong lịch sử của các thành viên của Giáo hội Công giáo.

Năm Thánh 2000 là dịp Đại Hồng Ân không chỉ cho Kitô hữu mà còn cho cả nhân loại với vai trò của Kitô giáo trong lịch sử 2000 năm qua của nhân loại (Tông thư Tertio Millennio Adveniente, s.15)

16. Ngoài những năm thánh thông thường, có những năm thánh ngoại thường hay không?

Trong suốt lịch sử cũng có những năm thánh ngoại thường. Lần đầu tiên là vào năm 1423, do ý muốn Đức Giáo Hoàng Martin V vì sự trở lại của giáo hoàng từ Avignon. Hai dịp khác, vào năm 1585 và năm 1655 để bắt đầu triều giáo hoàng của hai Đức Giáo hoàng tương ứng. Năm 1745, Đức Biển Đức XIV muốn Năm Thánh kỷ niệm hòa bình giữa các hoàng tử Kitô giáo. Ngoài Năm Thánh ngoại thường năm 1886, Đức Piô XI muốn có Năm Thánh 1900 năm Cứu Chuộc (1933-1934). Thánh Phaolô VI đã công bố Năm Thánh 1966 nhân dịp bế mạc Công đồng Vatican II, trong khi Thánh Gioan Phaolô II muốn cử hành Năm Thánh năm thứ 1950 của Ơn Cứu Chuộc (1983-1984). Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI muốn cử hành Năm Thánh Phaolô nhân dịp kỷ niệm hai ngàn năm ngày sinh của vị Tông đồ dân ngoại (28/6/2008 – 29/6/2009).

Đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, chúng ta có Năm Thánh Ngoại thường Lòng Thương Xót vào năm 2015 nhân dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc. Mục đích của Năm Thánh Lòng Thương Xót là kêu gọi các tín hữu chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, được tỏ hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô; nhờ đó, chúng ta cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương và trở nên dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót trong cuộc sống. Công đồng Vatican II (2015-2016) và Năm Thánh ngoại thường Loreto (8/12/2019 – 10/12/2021), diễn ra phần nào không được chú ý do đại dịch. Có lẽ sẽ có Năm Thánh ngoại thường tiếp theo vào năm 2033-2034 nhân kỷ niệm hai ngàn năm Ơn Cứu Chuộc.

17. Vào năm 2024 ĐGH Phanxicô công bố năm 2025 là năm thánh của Giáo Hội. Ngài đã lấy chủ đề chính là gì?

Chiều ngày 9.5.2024, trong giờ Kinh chiều II Lễ Chúa Lên Trời, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trao các Giáo hội trên năm châu lục Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025 có tựa đề “Spes non confundit – Niềm Hy vọng không làm thất vọng”, trích từ thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma (Rm 5,5).

18. Khẩu hiệu của năm thánh 2025 là gì?

Đức Giáo hoàng đã phê chuẩn khẩu hiệu của Năm Thánh 2025, được gói gọn trong những từ “Những người hành hương của hy vọng”.

19. Logo của năm thánh như thế nào và có ý nghĩa gì?

Tác giả của Logo, Giacomo Travisani, một cư dân ở Puglia, Ý cũng hiện diện trong buổi họp báo, đã giải thích rằng: Ông được truyền cảm hứng bởi viễn cảnh mọi người cùng nhau tiến về phía trước “nhờ ngọn gió Hy vọng là Thập giá của Chúa Kitô và chính Chúa Kitô”.

20. Năm thánh 2025 có một nhân vật biểu tượng. Nhân vật này tên gì?

Vatican công bố nhân vật biểu tượng có tên là “Luce” như một phần của các hoạt động chuẩn bị cho Năm Thánh 2025. Trong tiếng Ý, từ “luce” có nghĩa là ánh sáng. Nhân vật biểu tượng này được thiết kế nhằm đại diện cho ánh sáng và hy vọng, với mục tiêu thu hút giới trẻ và dẫn dắt du khách trong suốt Năm Thánh.

Nhân vật biểu tượng “Luce” của Vatican mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Luce mặc chiếc áo mưa màu vàng, tay cầm gậy tượng trưng cho sự bảo vệ và dẫn dắt của Thiên Chúa trong suốt lộ trình của Năm thánh. Thánh giá và chuỗi hạt trên cổ cho thấy, trong cuộc hành hương, cầu nguyện là sức mạnh thiêng liêng, gia tăng đức tin, cậy, mến, vững vàng hơn trước mọi nghịch cảnh. Logo thuyền buồm màu xanh lá cây trên áo của Luce là logo chính thức của Năm thánh. Đôi mắt sáng của Luce là biểu tượng của hy vọng, và hành trình của Luce cùng với chú chó Santino nhắc nhở mọi người về tinh thần hành hương và khám phá đức tin. Đôi giày lấm đầy bùn đất của Luce cho thấy lộ trình cuộc đời mà mỗi người phải đi qua.

Ngoài ra Luce còn có những người bạn đồng hành khác như Fe, Xin, và Sky – (Fe có nghĩa là Đức tin trong tiếng Tây Ban Nha, – Xin có nghĩa là Sự thật trong tiếng Nhật và Sky trong tiếng anh là bầu trời) mỗi người đều mang trên mình những chiếc áo khoác màu sắc rực rỡ và những trang bị cần thiết như của Luce.

Luce được thiết kế bởi Simone Legno, người sáng lập thương hiệu tokidoki, chuyên sản xuất các sản phẩm lấy cảm hứng từ văn hóa Nhật Bản.

(còn tiếp)

Nguồn: dongten.net

Thiet ke web ChoiXanh.net
TOP
Đang tải...