'Ngôi Lời đã làm Người': Ý nghĩa thần học và phụng vụ của mùa Giáng sinh

0 /5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 2025-12-19 16:23:09  | RSS

Việc tìm hiểu ý nghĩa thần gặp gỡ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo. Chính từ nền tảng này, chiều kích truyền giáo của Giáo hội được khơi dậy cách mạnh mẽ, bởi học và phụng vụ của mùa Giáng sinh không chỉ giúp chúng ta cử hành phụng vụ cách ý thức và sốt sắng hơn, nhưng còn định hướng lẽ mầu nhiệm Nhập thể không thể bị giữ kín trong nội bộ cộng đoàn tín hữu, nhưng phải được loan báo và làm chứng giữa lòng thế giới cả đời sống đức tin và sứ vụ của tín hữu.

Dẫn nhập

Sau cùng, hình ảnh Đức Maria – style='font-family:Tahoma,Geneva,sans-serif'>Mùa Giáng sinh không chỉ là một chuỗi các lễ kỷ niệm mang tính cảm xúc hay hoài niệm về một biến cố Thân Mẫu Thiên Chúa – như một điểm quy chiếu không thể thiếu vắng của mùa Giáng sinh, mời gọi các tín hữu học nơi Mẹ thái độ lắng đã xảy ra trong quá khứ, nhưng trước hết và trên hết là một thời gian phụng vụ trong đó Giáo hội cử hành một trong những mầu nhiệm chính nghe, vâng phục và phó thác trọn vẹn trước kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Nhờ đó, việc cử hành mùa Giáng sinh không dừng lại của đức tin Kitô giáo: mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Qua việc cử hành này, Giáo hội không ngừng chiêm ngắm và công bố sáng kiến cứu ở nghi thức phụng vụ, nhưng trở thành một kinh nghiệm biến đổi, dẫn đưa người tín hữu đến một đời sống đức tin trưởng thành hơn, dấn thân hơn, độ của Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ để bước vào lịch sử nhân loại, chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi, hầu đưa con và trung thành hơn với sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho Giáo hội giữa lòng nhân loại hôm nay.

Trong bối cảnh phụng vụ, mùa Giáng sinh mang style='font-family:Tahoma,Geneva,sans-serif'>(Cập nhật lúc 13g00 ngày 19/12/2025)
Lm. Giuse Phạm Đình Ái
Nguồn: hdgmvietnam.com

__ tương phản sâu sắc của mầu nhiệm đức tin; vừa loan báo một “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và nhân loại, vừa khơi dậy

Chú thích:

(1) X. Đức Bênêđictô XVI, “Light in the Christmas Season”, Tiếp kiến chung ngày 05/01/2011

(2) X. Công đồng Calcedonia, DS và sốt sắng hơn, nhưng còn định hướng cả đời sống đức tin và sứ vụ của tín hữu.

(3) De Incarnatione, 54,3.

1. Cử hành lòng nhân lành của Thiên Chúa

Trước hết, mùa Giáng sinh style='font-size:14px'>(4) X. Athanasius of Alexandria. De Incarnatione Verbi. Translated texts in Nicene and Post-Nicene Fathers, Series II, vol. 4. Peabody: Hendrickson, 1994.

(5) Sermon 21 (22), De Nativitate Domini, 2.

(6) X. Công đồng Calcedonia, DS 301–302; Gaudium et biến cố “không thể tin nổi” khi Thiên Chúa bày tỏ tình yêu tự hạ (kenosis) của Ngài (x. Pl 2,6–8): xuống thế làm người và ở giữa Spes 22.

(7) X. Pope Benedict XVI, “Spiritual meaning of Christmas” in General Audience of 17 December 2008; “Nativity of the Lord, Mystery of Joy and chúng ta (x. Mt 1, 18-24). Ngài là Thiên Chúa quyền uy và toàn năng lại trở nên một hài nhi bé nhỏ và yếu ớt phải cậy dựa vào sự chăm Light” in General Audience of 4 January 2012; “Holy Christmas” in General Audience of 21 December 2011.

(8) X. Pope Benedict XVI, “Light in the Christmas Season” sóc và trợ giúp của người mẹ nhân loại. Thật đúng như lời Thánh Phaolô rao giảng về Thập giá của Đức Kitô như là sự điên in General Audience of 5 January 2011; “He became a man” in General Audience of 9 January 2013.

(9) Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh I.

(10) Thánh GH Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus, số 5.

này của Thiên Chúa chỉ có thể là bởi lòng nhân lành và tình thương của Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16). Những bản văn phụng vụ lễ Giáng sinh 25/12 đều mô tả cho chúng ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa được bày tỏ nơi cuộc Giáng sinh của Đức Giêsu.

Phụng vụ không cử hành chỉ để chúng ta nhìn lại quá khứ một biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm hay để chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm tình thương này theo tình cảm.[1] Đúng hơn, phụng vụ mời gọi chúng ta khám phá ra ân sủng, lòng thương xót và nhân ái của Thiên Chúa đã có từ ngàn xưa qua các biến cố, qua cả biến cố nhập thể; và tình thương của Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục hoạt động trong cuộc đời của riêng mỗi người. Thách đố đối với chúng ta trong mùa Giáng sinh là hãy trở thành khí cụ tình thương của Thiên Chúa cho người khác và biết đem một chút ánh sáng cũng như niềm vui vào trong bóng đêm của thế giới tăm tối này.

2. Một thời gian phân cực và tương phản

Mùa Giáng sinh được ví như hình elip với 2 trung tâm: [i] Trung tâm thứ I là sự khiêm hạ và nghèo hèn; [ii] Trung tâm thứ II là toàn năng và huy hoàng. Một trung tâm là nơi reo vui và hạnh phúc vì tình thương cứu độ của Thiên Chúa; còn trung tâm kia là cảm nghiệm về một Thiên Chúa vĩ đại nhưng như thể “cần đến” chúng ta. Đây là thời gian của những tương phản rõ rệt, tất cả được thắt nối và phối hợp với nhau trong mầu nhiệm của Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người.[2]

Sự khiêm hạ và nghèo hèn của biến cố Chúa Giáng sinh tỏ lộ trong nhiều hoàn cảnh. Với lễ Giáng sinh, chúng ta tưởng niệm Chúa hạ sinh trong một máng cỏ vì không có nơi chỗ cho Ngài trong quan trọ. Cuộc hạ sinh của Ngài được mặc khải cho những mục đồng đơn sơ trong xã hội. Lễ Thánh Gia và lễ các thánh Anh hài nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa bị bách hại bởi bàn tay của vua Hêrôđê và phải sống kiếp tị nạn bên Ai Cập. Lễ Chúa chịu phép rửa gợi cho chúng ta biết Đấng Thánh đã đi vào trong hàng ngũ tội nhân để lãnh phép rửa thống hối của Gioan. Điều này khiến Gioan Tẩy Giả hết sức kinh ngạc, ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3, 14). Tương phản với sự khiêm hạ và nghèo hèn đó là ánh vinh quang rực rỡ được mặc khải trong biến cố Chúa ra đời. Trong lễ Hiển linh, các đạo sĩ từ phương trời xa xăm đã tìm đến với Hài Nhi Giêsu, và sau khi đã tìm thấy Ngài, họ dâng hiến lễ vật cũng như bái thờ Ngài. Còn trong chính lễ Giáng sinh, vinh quang Thiên Chúa trở nên hữu hình khi thiên thần từ trời loan báo tin vui cho các mục đồng và đông đảo các thiên thần ca hát chúc tụng Thiên Chúa (Lc 2, 13). Trong lễ Chúa chịu phép rửa, chúng ta nghe từ phụng vụ Lời Chúa rằng các tầng trời mở ra và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Đức Giêsu, đồng thời có tiếng phán từ trời rằng, Ngài là con yêu dấu của Chúa Cha (x. Mt 3, 13-17).

Có một sự phân cực khác trong mùa Giáng sinh. Đó là, một mặt, lòng nhân ái của Thiên Chúa vươn chạm đến chúng ta qua nhiều cách thế. Mặt khác, chúng ta lại thấy chính Thiên Chúa như là Đấng đang ảnh hưởng và thách đố chúng ta như thế nào.

Chúng ta có thể cảm nghiệm được lòng nhân ái của Thiên Chúa trong tất cả cách thế tỏ hiện của Ngài: sinh ra như một hài nhi bé bỏng và yếu ớt (lễ Giáng sinh); sinh ra bởi một phụ nữ và nên tương tự chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi (lễ Mẹ Thiên Chúa); Ngài đi vào thế giới để kêu gọi mọi người đến với ơn cứu độ (lễ Hiển linh: các đạo sĩ từ phương Đông); Ngài chấp nhận phép rửa thống hối để bày tỏ sự liên đới của một Đấng vô tội với chúng ta là những tội nhân (lễ Chúa chịu phép rửa).

Chúng ta lại cũng có thể cảm nghiệm được trong mùa Giáng sinh một Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta và thậm chí đòi hỏi cả sự sống chúng ta nữa. Lễ Thánh Stephanô - ngay sau lễ Giáng sinh - là một minh chứng cho mọi thời đại biết rằng Con Trẻ ở trong máng cỏ không chỉ toàn là ngọt ngào dịu êm và không ảnh hưởng gì, nhưng là một “thách đố” cho mỗi người chúng ta. Thánh Stêphanô được kêu gọi để trở nên chứng tá của Ngài. Kết quả là, Stêphanô bị thử thách, bị chống đối và bị ném đá đến mất mạng (x. Cv 7, 59). Câu chuyện về các thánh anh hài cũng vậy, là một bằng chứng cho thấy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ có một ảnh hưởng to tát trên lịch sử và cuộc sống nhân loại. Các thánh Anh hài đã phải đổ máu làm chứng cho Đấng Cứu Độ (x. Mt 2, 16-18). Thiên Chúa chúng ta - trong hình hài của một em bé yếu ớt và bé bỏng - lại chính là Thiên Chúa nắm giữ chủ quyền tuyệt đối và có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Ngài không cần ai làm cố vấn cho mình và đặc biệt không cần con người chấp thuận cho những đường lối của Ngài. Nếu trí tuệ con người giới hạn của chúng ta không thể nắm bắt hay thông hiểu được thì chúng ta vẫn tin rằng Thiên Chúa đang hành động luôn luôn chỉ vì những điều tốt đẹp cho con người. Cân nhắc tất cả những thực tại này khiến chúng ta nhận ra rằng lễ Giáng sinh và mùa Giáng sinh không chỉ là thời gian của tình cảm và lãng mạn nhưng đôi khi đòi hỏi chúng ta phải đương đầu và chấp nhận những thực tại khó khăn của đời sống Kitô hữu cũng như của các biến cố trong thế giới.

3. Cử hành “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và con người

Hạn từ “cuộc trao đổi thiêng thánh” được sử dụng bởi các giáo phụ trong những bài viết hoặc bài giảng của các ngài nhằm nắm bắt thực tại thiêng liêng thực sự của mùa Giáng sinh. Qua cụm từ này, các giáo phụ muốn nói rằng, nhờ thực tại nhập thể của Thiên Chúa mà toàn thể thọ tạo và đặc biệt là loài người được thánh hóa và nâng lên một phẩm giá cao trọng hơn. Thánh Irênê đã nói về Đức Kitô như sau: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người.[3] Thánh Clêmentê (thành Alexandria) và Grêgorio (thành Naziance) đã biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Chúng ta lại thấy câu này xuất hiện sau đó trong tác phẩm De Incarnatione Verbi (đoạn 54) của thánh Athanasius (Alexandria).[4] Thánh Lêô Cả giải thích thêm: Đấng Tạo Hóa đã hạ mình làm người, hầu cho phép nhân loại tìm thấy chính mình trong bản chất của Ngài.[5] Quả thật, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Đấng Tác Tạo (x. St 1, 26-27), nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, Thiên Chúa cư ngụ trong thân xác con người, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta (x. Mt 1, 18-24). Về mặt thần học, sự kiện này cho thấy sự liên đới mật thiết của Thiên Chúa với nhân loại, khởi xướng ơn cứu độ bằng cách kết hợp thần tính và nhân tính trong một Ngôi Vị duy nhất của Chúa Kitô, cho phép các tín hữu được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.[6] Về mặt phụng vụ, mùa Giáng sinh - từ ngày Giáng sinh cho đến lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa - làm cho mầu nhiệm này hiện diện một cách bí tích, vượt lên trên sự tưởng niệm đơn thuần để thúc đẩy sự biến đổi trong các tín hữu.[7]

Xét về phía nhân loại: [i] Mầu nhiệm Nhập thể mở ra sự cứu chuộc: Thiên Chúa bước vào lịch sử để chiến thắng tội lỗi và cái chết, làm cho những người tin trở thành 'người thừa kế của Thiên Chúa và đồng thừa kế với Chúa Kitô' (x. Rm 8,17); [ii] Nhờ mầu nhiệm Nhập thể mà giờ đây, con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta được mời gọi tham gia vào đời sống Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Thể - nơi Ngôi Lời Nhập Thể nuôi dưỡng muôn đời; được mời gọi hãy từ chối trở lại sự thấp hèn cũ xưa và đừng quay về với tội lỗi nữa. Giờ đây, chúng ta đã được cứu thoát khỏi quyền lực của bóng tối và được đem vào nơi đầy ánh sáng trong vương quốc của Thiên Chúa (x. Ep 5,8; Pl 2,15).[8]

Xét về phía thế giới: nhờ mầu nhiệm Nhập thể, mà trái đất - nơi con người cư ngụ - đã trở nên nơi thánh cho Thiên Chúa đến gặp gỡ