Sắc màu hy vọng

5 /5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 2025-10-30 09:11:04  | RSS

Phụng vụ Hội thánh dành tháng Mười Một để các Kitô hữu bày tỏ cách cụ thể và sâu xa mối hiệp thông với những người đã ra đi trước chúng ta trong đức tin. Đây cũng là thời khắc thuận tiện để chúng ta tiếp tục nối “những nhịp cầu tương giao” ngang qua lời kinh, tiếng hát và những việc lành phúc đức trao ban cho các linh hồn nơi luyện tội.

Bởi lẽ đó, sắc tím của áo lễ không chỉ giữ chúng ta trong bầu khí trầm mặc của thương nhớ, mà còn mở ra những sắc màu hy vọng: hy vọng của hiệp thông, hy vọng được tỏ lộ từ thập giá, và hy vọng vẫn tiếp tục được gieo vào lòng đời qua từng nghĩa cử yêu thương. Chính những sắc màu hy vọng ấy làm nên nhịp đập của Hội thánh – một Hội thánh không ngừng hiệp thông và hướng về sự sống viên mãn trong tình yêu Thiên Chúa, nơi mà mọi giọt lệ sẽ được lau khô, và sự chết không còn quyền lực trên con người nữa (x. Kh 21, 4).

Hiệp thông trong niềm hy vọng

Mầu nhiệm các Thánh thông công diễn tả sự hiệp nhất sâu xa trong lòng Hội thánh. Những người còn đang lữ hành nơi dương thế, những linh hồn đang được thanh luyện, và các Thánh đã được hưởng phúc vinh quang Thiên Chúa – tất cả đều hiệp thông trong đức mến, cùng chia sẻ cho nhau những ân huệ thiêng liêng. Chính vì tin vào mối hiệp thông ấy, ngay từ buổi đầu, Hội thánh đã cầu nguyện cho những ai đã qua đời, như một cử chỉ nối dài của tình yêu (x. LG số 49). Bởi lẽ đó, khi chúng ta vẫn còn đang ngưỡng vọng trời cao để kính nhớ các Thánh nam nữ và chiêm ngưỡng ánh sáng rực rỡ của Giáo hội khải hoàn, thì cùng lúc, Mẹ Giáo hội cũng hướng chúng ta về Giáo hội thanh luyện - nơi những linh hồn đang cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức Kitô, niềm hiệp thông ấy đạt đến đỉnh cao: Thiên Chúa liên đới với phận người cho đến cùng.

Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp cho những gian lao mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xóa sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức Kitô chịu đóng đinh: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Càng được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi đó, đau khổ biến thành cửa ngõ của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng chừng như điểm kết của buồn bã và thất bại, lại trở nên điểm khởi đầu của hy vọng – khi sự chết bị đánh bại, và cánh cửa dẫn vào vinh quang phục sinh được mở ra cho muôn thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15, 28).

Bức tranh tử nạn trên núi Sọ được phủ bóng bởi sắc màu của hy vọng, chứ không hẳn chỉ là gam màu tang thương và u buồn. Nơi đó, ta bắt gặp những sắc thái rất “con người”, được khắc họa qua những chọn lựa khác nhau trước thập giá của Đức Kitô - những chọn lựa tạo nên những gam màu đối lập trong bức tranh hy vọng ấy. Đó là gam màu của ích kỷ và thứ hy vọng chóng tàn, mà tiếng nói của anh trộm dữ là minh chứng: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23, 39). Chúng ta cũng nhận ra gam màu của sám hối nơi anh trộm lành: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm” (Lc 23, 41). Và rồi, tỏa sáng hơn cả, là gam màu của hy vọng đích thực, “Hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm 5, 5), khi Đức Giêsu cất lời: “Hôm nay, anh sẽ ở cùng tôi trên nước Thiên Đàng” (Lc 23, 43). Ở đó, hy vọng không còn là điều hão huyền do con người dựng nên, nhưng là ân ban phát xuất từ trái tim Thiên Chúa – Đấng đã chọn con đường thập giá để biểu lộ tình yêu cứu độ.

Thái độ của các nhân vật được nhắc đến nói với ta điều gì? Như nhiều người trong đám đông, tên trộm dữ tiếp tục chờ đợi một phép lạ thứ n để thỏa mãn trí tò mò hơn là khát khao chân lý. Lời chế giễu của tên trộm dữ chỉ là tiếng vọng khác của cơn cám dỗ trong sa mạc (x. Mt 4, 3). Ở cả hai nơi, Satan đều khoác cho sự hoài nghi chiếc áo của “hy vọng”, để thử thách quyền năng của Thiên Chúa. Trái lại, lời thú tội của anh trộm lành, đâu đó phản ánh tâm hồn của những người thiện tâm theo Chúa trên hành trình lên núi Sọ. Lòng họ cũng đau, cũng thắt và bị xé nát theo những đòn vọt và rất nhiều lời nhục mạ mà Thầy Giêsu phải chịu lấy. Còn Giêsu, trong cảnh bĩ cực của những giây phút cuối đời, Người vẫn dùng con tim để nghe, để tha thứ và trao ban lòng thương xót cho bất cứ ai sẵn sàng trở về vì Người là “cánh cửa” ơn cứu độ (x. Ga 10,7.9), là “niềm hy vọng của chúng ta” (x. 1 Tm 1, 1) (1). Như vậy, chúng ta kín múc được bài học từ chính Thầy Giêsu trong phút nguy tử của Ngài: làm điều thẳng ngay, sẵn sàng trao ban tình yêu cho đồng loại, và dám trở nên “cửa hy vọng” cho người khác. Vì được hy vọng cứu độ lấp đầy, ta lại trở nên khí cụ gieo hy vọng giữa đời. Đó chẳng phải là cách mà chúng ta đối xử với người còn sống cũng như những ai đã qua đời sao?

Hy vọng trao ban

Từ nơi Thập giá, niềm hy vọng được mở ra cho mọi thế hệ. Và trong ánh sáng của hy vọng ấy, chúng ta bước vào tháng cầu cho các linh hồn, với tâm thế của những người được nối kết trong tình yêu và lòng thương xót. Khi tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình vì sớm hay muộn, chúng ta cũng sẽ được Chúa gọi về, và chính hôm nay chúng ta quyết định mình sẽ ra đi trong tâm thế nào. Chúng ta không chạy trốn cái chết, nhưng luôn chào đón chị Chết trong tâm thế sẵn sàng thực thi thánh ý Thiên Chúa để cái chết thứ hai chẳng thể làm hại ta (2).

Tháng các Linh hồn là cơ hội quý giá để chúng ta sống lòng hiếu nghĩa, cầu nguyện, và quảng đại dâng những việc lành phúc đức cho các linh hồn trong luyện hình. Đó không chỉ là nghĩa cử tri ân, mà còn là cách thực hành mầu nhiệm thông công cách sống động nhất. Mỗi lời cầu, mỗi hành vi bác ái, hay mỗi lần ta bước lại gần tha nhân với một thái độ thiện lành nào đó – đều là một hạt giống hy vọng được gieo vào đời sống vĩnh cửu. Và chính khi ta gieo một hạt hy vọng nhỏ bé, Thiên Chúa lại làm cho nảy sinh những bông hoa sự sống mới trên mảnh đất của lòng thương xót. Và biết đâu, chính những linh hồn mà ta cầu nguyện hôm nay, sẽ là những người đón ta nơi cổng Trời, trong ngày ta được cùng họ ca vang bài ca cứu độ trong niềm hy vọng đã khởi đi từ Thập giá của tình yêu.

Tháng Mười Một, giữa những buổi chiều tím rợp, chúng ta không chỉ nhớ người đã khuất, mà còn học cách tin, yêu và hy vọng như họ đã từng tin yêu.

Lạy Chúa của hy vọng,
ngang qua Thập giá Chúa, chúng con tìm thấy sự sống;
và trong lời cầu cho những người đã khuất, chúng con cảm nhận mầu nhiệm hiệp thông.

Xin cho từng ngày sống của chúng con trở nên ánh sáng sưởi ấm những tâm hồn đang khát khao lòng thương xót Chúa, để cùng nhau, chúng con bước vào Trời Mới Đất Mới (x. Kh 21, 1), nơi mọi giọt lệ được lau khô và chỉ còn lại ánh sáng của tình yêu vĩnh cửu. Amen.

Phêrô Nguyễn Quốc Bảo
Nguồn: hdgmvietnam.com

______________

(1) x. Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025, số 1.

(2) x. THÁNH PHANXICÔ ASSISI, Bài Ca Mặt Trời, Tiểu khúc về Chị Chết.

được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi đó, đau khổ biến thành cửa ngõ được tỏ lộ từ thập giá

Các bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh tỏa sáng hơn cả, là gam màu của hy vọng đích thực, 'Hy vọng không làm chúng ta thất vọng' (Rm 5,5), khi Đức Giêsu cất lời: 'Hôm liêng. Chính vì tin vào mối hiệp thông ấy, ngay từ buổi đầu, Hội thánh đã cầu nguyện cho những ai đã qua đời, như một cử chỉ nối dài con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xóa sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân áo của 'hy vọng', để thử thách quyền năng của Thiên Chúa. Trái lại, lời thú tội của anh trộm lành, đâu đó phản ánh Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi' (Ga 12,32). Càng nhiều người trong đám đông, tên trộm dữ tiếp tục chờ đợi một phép lạ thứ n để thỏa mãn trí tò mò hơn là khát khao chân nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức cách mà chúng ta đối xử với người còn sống cũng như những ai đã qua đời sao?

Các bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh các Thánh đã được hưởng phúc vinh quang Thiên Chúa – tất cả đều hiệp thông trong đức mến, cùng chia sẻ cho nhau những ân huệ thiêng ánh sáng rực rỡ của Giáo hội khải hoàn, thì cùng lúc, Mẹ Giáo hội cũng hướng chúng ta về Giáo hội thanh luyện - nơi những linh hồn đang liêng. Chính vì tin vào mối hiệp thông ấy, ngay từ buổi đầu, Hội thánh đã cầu nguyện cho những ai đã qua đời, như một cử chỉ nối dài chứng: 'Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!' (Lc 23,39). Chúng ta cũng nhận ra gam màu cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng chừng như điểm kết của buồn bã và hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp cho những gian lao mà nay, anh sẽ ở cùng tôi trên nước Thiên Đàng' (Lc 23,43). Ở đó, hy vọng không còn là điều hão huyền do con người dựng nên, nhưng của tình yêu (x. LG số 49). Bởi lẽ đó, khi chúng ta vẫn còn đang ngưỡng vọng trời cao để kính nhớ các Thánh nam nữ và chiêm ngưỡng một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia tâm hồn của những người thiện tâm theo Chúa trên hành trình lên núi Sọ. Lòng họ cũng đau, cũng thắt và bị xé nát theo những được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi đó, đau khổ biến thành cửa ngõ lý. Lời chế giễu của tên trộm dữ chỉ là tiếng vọng khác của cơn cám dỗ trong sa mạc (x. Mt 4,3). Ở cả hai nơi, Satan đều khoác cho sự hoài nghi chiếc Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi' (Ga 12,32). Càng style='font-size:14px'>Hy vọng trao ban

Từ nơi Thập giá, niềm hy vọng được mở ra cho mọi thế hệ. hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp cho những gian lao mà liêng. Chính vì tin vào mối hiệp thông ấy, ngay từ buổi đầu, Hội thánh đã cầu nguyện cho những ai đã qua đời, như một cử chỉ nối dài cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức của tình yêu (x. LG số 49). Bởi lẽ đó, khi chúng ta vẫn còn đang ngưỡng vọng trời cao để kính nhớ các Thánh nam nữ và chiêm ngưỡng của sám hối nơi anh trộm lành: 'Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm' (Lc 23,41). Và rồi, Kitô, niềm hiệp thông ấy đạt đến đỉnh cao: Thiên Chúa liên đới với phận người cho đến cùng.

Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các bài thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bức tranh một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia độ.

Thái độ của các nhân vật được nhắc đến nói với ta điều gì? Như cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi' (Ga 12,32). Càng dùng con tim để nghe, để tha thứ và trao ban lòng thương xót cho bất cứ ai sẵn sàng trở về vì Người là 'cánh cửa' ơn cứu độ (x. Ga thất bại, lại trở nên điểm khởi đầu của hy vọng – khi sự chết bị đánh bại, và cánh cửa dẫn vào vinh quang phục sinh được mở ra cho muôn tâm hồn của những người thiện tâm theo Chúa trên hành trình lên núi Sọ. Lòng họ cũng đau, cũng thắt và bị xé nát theo những của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng chừng như điểm kết của buồn bã và và lòng thương xót. Khi tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình vì sớm hay muộn, chúng ta cũng sẽ một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia ánh sáng rực rỡ của Giáo hội khải hoàn, thì cùng lúc, Mẹ Giáo hội cũng hướng chúng ta về Giáo hội thanh luyện - nơi những linh hồn đang style='font-family:Tahoma,Geneva,sans-serif'>Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức nay, anh sẽ ở cùng tôi trên nước Thiên Đàng' (Lc 23,43). Ở đó, hy vọng không còn là điều hão huyền do con người dựng nên, nhưng đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả việc tử nạn trên núi Sọ được phủ bóng bởi sắc màu của hy vọng, chứ không hẳn chỉ là gam màu tang thương và u buồn. Nơi đó, ta bắt gặp nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức nhiều người trong đám đông, tên trộm dữ tiếp tục chờ đợi một phép lạ thứ n để thỏa mãn trí tò mò hơn là khát khao chân Kitô, niềm hiệp thông ấy đạt đến đỉnh cao: Thiên Chúa liên đới với phận người cho đến cùng.

[1]. Như vậy, chúng ta kín múc được thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bức tranh đòn vọt và rất nhiều lời nhục mạ mà Thầy Giêsu phải chịu lấy. Còn Giêsu, trong cảnh bĩ cực của những giây phút cuối đời, Người vẫn thất bại, lại trở nên điểm khởi đầu của hy vọng – khi sự chết bị đánh bại, và cánh cửa dẫn vào vinh quang phục sinh được mở ra cho muôn được Chúa gọi về, và chính hôm nay chúng ta quyết định mình sẽ ra đi trong tâm thế nào. Chúng ta không chạy trốn cái chết, nhưng nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức cần đến những ân phúc chuyển cầu. Và nếu mầu nhiệm hiệp thông cho ta cảm nhận sự gần gũi với những người đã khuất, thì nơi thập giá Đức bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả Kitô, niềm hiệp thông ấy đạt đến đỉnh cao: Thiên Chúa liên đới với phận người cho đến cùng.

Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng chừng như điểm kết của buồn bã và bài học từ chính Thầy Giêsu trong phút nguy tử của Ngài: làm điều thẳng ngay, sẵn sàng trao ban tình yêu cho đồng loại, và dám trở nên tử nạn trên núi Sọ được phủ bóng bởi sắc màu của hy vọng, chứ không hẳn chỉ là gam màu tang thương và u buồn. Nơi đó, ta bắt gặp dùng con tim để nghe, để tha thứ và trao ban lòng thương xót cho bất cứ ai sẵn sàng trở về vì Người là 'cánh cửa' ơn cứu độ (x. Ga thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bức tranh luôn chào đón chị Chết trong tâm thế sẵn sàng thực thi thánh ý Thiên Chúa để cái chết thứ hai chẳng thể làm hại ta Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi' (Ga 12,32). Càng Kitô, niềm hiệp thông ấy đạt đến đỉnh cao: Thiên Chúa liên đới với phận người cho đến cùng.

Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các độ.

Thái độ của các nhân vật được nhắc đến nói với ta điều gì? Như ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được đồng màu đối lập trong bức tranh hy vọng ấy. Đó là gam màu của ích kỷ và thứ hy vọng chóng tàn, mà tiếng nói của anh trộm dữ là minh được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi đó, đau khổ biến thành cửa ngõ áo của 'hy vọng', để thử thách quyền năng của Thiên Chúa. Trái lại, lời thú tội của anh trộm lành, đâu đó phản ánh bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả thất bại, lại trở nên điểm khởi đầu của hy vọng – khi sự chết bị đánh bại, và cánh cửa dẫn vào vinh quang phục sinh được mở ra cho muôn 'cửa hy vọng' cho người khác. Vì được hy vọng cứu độ lấp đầy, ta lại trở nên khí cụ gieo hy vọng giữa đời. Đó chẳng phải là những sắc thái rất 'con người', được khắc họa qua những chọn lựa khác nhau trước thập giá của Đức Kitô - những chọn lựa tạo nên những gam 10,7.9), là 'niềm hy vọng của chúng ta' (x. 1 Tm 1,1)[1]. Như vậy, chúng ta kín múc được tử nạn trên núi Sọ được phủ bóng bởi sắc màu của hy vọng, chứ không hẳn chỉ là gam màu tang thương và u buồn. Nơi đó, ta bắt gặp (2).

Tháng các Linh hồn là cơ hội quý giá để chúng ta sống lòng hiếu nghĩa, được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi đó, đau khổ biến thành cửa ngõ style='font-family:Tahoma,Geneva,sans-serif'>Hy vọng được tỏ lộ từ thập giá

Các mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được bài đọc trong thánh lễ cầu cho các đẳng linh hồn (lễ II), mở ra cho chúng ta những chân trời hy vọng hướng tới thực tại vĩnh hằng. Ngôn sứ Isaia miêu tả nhiều người trong đám đông, tên trộm dữ tiếp tục chờ đợi một phép lạ thứ n để thỏa mãn trí tò mò hơn là khát khao chân thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm chứng: 'Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!' (Lc 23,39). Chúng ta cũng nhận ra gam màu của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng chừng như điểm kết của buồn bã và tâm hồn của những người thiện tâm theo Chúa trên hành trình lên núi Sọ. Lòng họ cũng đau, cũng thắt và bị xé nát theo những việc Thiên Chúa bù đắp cho những gian lao mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xóa sạch thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bức tranh cách mà chúng ta đối xử với người còn sống cũng như những ai đã qua đời sao?

Hy vọng trao ban

Từ nơi Thập giá, niềm hy vọng được mở ra cho mọi thế hệ. chứng: 'Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!' (Lc 23,39). Chúng ta cũng nhận ra gam màu 'cửa hy vọng' cho người khác. Vì được hy vọng cứu độ lấp đầy, ta lại trở nên khí cụ gieo hy vọng giữa đời. Đó chẳng phải là màu đối lập trong bức tranh hy vọng ấy. Đó là gam màu của ích kỷ và thứ hy vọng chóng tàn, mà tiếng nói của anh trộm dữ là minh là cách thực hành mầu nhiệm thông công cách sống động nhất. Mỗi lời cầu, mỗi hành vi bác ái, hay mỗi lần ta bước lại gần tha nhân thất bại, lại trở nên điểm khởi đầu của hy vọng – khi sự chết bị đánh bại, và cánh cửa dẫn vào vinh quang phục sinh được mở ra cho muôn việc Thiên Chúa bù đắp cho những gian lao mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xóa sạch khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được áo của 'hy vọng', để thử thách quyền năng của Thiên Chúa. Trái lại, lời thú tội của anh trộm lành, đâu đó phản ánh lên với tôi' (Ga 12,32). Càng được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân loại. Nơi tỏa sáng hơn cả, là gam màu của hy vọng đích thực, 'Hy vọng không làm chúng ta thất vọng' (Rm 5,5), khi Đức Giêsu cất lời: 'Hôm thế hệ, hướng trọn về ngày Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bức tranh dùng con tim để nghe, để tha thứ và trao ban lòng thương xót cho bất cứ ai sẵn sàng trở về vì Người là 'cánh cửa' ơn cứu độ (x. Ga đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc những sắc thái rất 'con người', được khắc họa qua những chọn lựa khác nhau trước thập giá của Đức Kitô - những chọn lựa tạo nên những gam Và trong ánh sáng của hy vọng ấy, chúng ta bước vào tháng cầu cho các linh hồn, với tâm thế của những người được nối kết trong tình yêu của sám hối nơi anh trộm lành: 'Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm' (Lc 23,41). Và rồi, cách mà chúng ta đối xử với người còn sống cũng như những ai đã qua đời sao?

Bức tranh mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc. Còn thánh Phaolô cho biết: chúng ta là con cái Thiên Chúa nên sẽ được mọi người lên với tôi' (Ga 12,32). Càng được nâng lên trên thập giá, Đức Kitô càng mở rộng vòng tay để ôm lấy nhân đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, và là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc tâm hồn của những người thiện tâm theo Chúa trên hành trình lên núi Sọ. Lòng họ cũng đau, cũng thắt và bị xé nát theo những đó, đau khổ biến thành cửa ngõ của tình yêu; bóng tối biến thành nơi chiếu tỏa niềm hy vọng không tàn. Như vậy, núi Sọ, nơi tưởng nay, anh sẽ ở cùng tôi trên nước Thiên Đàng' (Lc 23,43). Ở đó, hy vọng không còn là điều hão huyền do con người dựng nên, nhưng tử nạn trên núi Sọ được phủ bóng bởi sắc màu của hy vọng, chứ không hẳn chỉ là gam màu tang thương và u buồn. Nơi đó, ta bắt gặp 10,7.9), là 'niềm hy vọng của chúng ta' (x. 1 Tm 1,1)[1]. Như vậy, chúng ta kín múc được khải (x. Rm 8,14-23). Vinh quang ấy được tỏ lộ nơi Đức Kitô chịu đóng đinh: 'Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo màu đối lập trong bức tranh hy vọng ấy. Đó là gam màu của ích kỷ và thứ hy vọng chóng tàn, mà tiếng nói của anh trộm dữ là minh và lòng thương xót. Khi tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình vì sớm hay muộn, chúng ta cũng sẽ