Tại sao lại là Vedanā và Vedanā là gì?

5 /5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 2025-10-15 09:58:36  | RSS

Năm 1969, sau 14 năm thụ giáo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sayagyi U Ba Khin (1899-1971), được sự cho phép của thầy, S.N. Goenka (1924-2013) đã trở thành người hướng dẫn thiền tập Vipassana và thành lập trung tâm thiền đầu tiên của mình tại Hyderabad, Ấn Độ.

Ngày nay các khóa thiền Vipassana theo truyền thống Sayagyi U Ba Khin do ngài Goenka hướng dẫn đã lan rộng khắp toàn cầu, đem lại nhiều lợi lạc cho hành giả thuộc nhiều truyền thống tín ngưỡng cũng như phi tín ngưỡng, muốn tìm kiếm con đường thoát khổ theo giáo pháp của Đức Phật. Theo S.N.Goenka, giáo lý và thực hành phải luôn sóng đôi. Vì vậy, ngoài việc đào tạo các “thiền sư phụ tá”, năm 1985 ông đã thành lập Viện Nghiên cứu Vipassana (Vipassana Research Institute) tại Dhamma Giri, Igatpuri để nghiên cứu, xuất bản tài liệu về thiền Vipassana và tác dụng của pháp thiền này.

Loạt bài sau đây được chuyển ngữ từ các tham luận trong tập Kỷ yếu Hội thảo về Vedanā và Sampajañña, do Viện Nghiên cứu Vipassana ấn hành, 1990. Hội thảo này là một cột mốc quan trọng trong việc công nhận thiền Vipassana là tinh hoa của giáo lý Đức Phật, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc, tường tận về hai thuật ngữ quan trọng này từ kinh điển Pāli và truyền cảm hứng cho các thiền sinh và học giả quan tâm đến Phật giáo. Giữa ngổn ngang trong việc giới thiệu các phương pháp “chữa lành” mệnh danh là thiền Phật giáo, GN xin giới thiệu tài liệu căn bản này đến quý độc giả, qua bản dịch của dịch giả đồng thời là hành giả Vipassana Chân Thông Chiếu, dành riêng cho GN.

***

Tôi nhớ lần đầu tiên được gặp Sayagyi U Ba Khin. Tôi đã chấp thủ mạnh mẽ tín ngưỡng và hoài nghi của mình về lời dạy của Đức Phật. Sayagyi biết tôi là một nhà lãnh đạo của cộng đồng Ấn Độ giáo ở địa phương. Ngài hỏi tôi, “Các bạn theo đạo Hindu có phản đối gì đối với sīla (giới – lối sống đạo đức), samādhi (định – sự làm chủ tâm trí) và paññā (tuệ để thanh lọc tâm trí không)?”. Làm sao tôi có thể phản đối được! Làm sao có ai có thể phản đối được! Ngài tiếp tục, “Này, đây là những gì Đức Phật đã dạy. Đây là tất cả những gì tôi quan tâm và đây là tất cả những gì tôi sẽ dạy cho anh”. Sự giải thích của Sayagyi về Dhamma mang tính phổ quát và không mang tính tôn giáo. Ngài không quan tâm tới vấn đề tôi là một người theo đạo Hindu.

Khóa học Vipassana đầu tiên đã giới thiệu cho tôi những lời dạy của Đức Phật và làm thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Tôi như bị nam châm cuốn hút trước cách giảng dạy hợp lý, thực tế, thực dụng, phổ quát và không mang tính chất tông phái của ngài. Trong đó không có gì có thể phản đối được. Tôi đã được nghe và nói về việc diệt trừ phiền não và thanh lọc tâm trí. Khi tôi bắt đầu quan sát các cảm giác, ban đầu có những lúc nghi ngờ, “Điều này sẽ giúp tôi như thế nào?”. Nhưng ngay sau đó tôi nhận ra rằng bằng cách quan sát các cảm giác, tôi sẽ đi đến gốc rễ của phiền não. Tôi thực sự đang đi tới mục tiêu giải thoát hoàn toàn.

Bất cứ điều gì Sayagyi dạy tôi không chỉ đơn thuần là để phát triển đức tin hay để thỏa mãn tri thức, mặc dù cả hai đều quan trọng. Ngài đã dạy tôi cách nhận biết sự thật ở cấp độ kinh nghiệm. Nếu có ai đó cố gắng thuyết phục tôi về những lời dạy của Đức Phật bằng những thảo luận mang tính trí thức, logic hay suy luận thì tôi sẽ không bị thuyết phục, vì tôi hoàn toàn hài lòng với đức tin của chính mình. Điều đã thuyết phục tôi và cho tôi kết quả ngay ở đây và bây giờ là trải nghiệm về sự thật thông qua các cảm giác của thân thể. Công cụ hữu hình này đã cho tôi niềm tin rằng tôi thực sự có thể trở thành sthitaprajña (ṭhitapañño), mục tiêu ấp ủ của mọi người theo đạo Hindu.

Dhamma xóa bỏ đau khổ và mang lại hạnh phúc. Ai là người ban cho niềm hạnh phúc này? Không phải Đức Phật mà là Dhamma, sự hiểu biết về vô thường (anicca) bên trong thân thể, mới mang lại hạnh phúc này. Đó là lý do tại sao bạn phải hành thiền và ý thức về vô thường một cách liên tục.

Sayagyi U Ba Khin

Càng thực hành, tôi càng tin chắc rằng Đức Phật là nhà khoa học hàng đầu của tâm và thân; nhà phân tích hàng đầu về sự thật về đau khổ và sự diệt trừ đau khổ. Và điều khiến ngài trở thành một nhà khoa học vô song là khám phá ra rằng ta (tṛṣṇā, ái/ tham ái/ tham dục/ tham-sân) xuất hiện, phản ứng với vedanā (thọ/ cảm thọ/ cảm nhận/ cảm giác). Tôi đã nghiên cứu lời dạy của các vị thầy tâm linh Ấn Độ trước và sau Đức Phật, những người cũng chấp nhận ta là nguyên nhân của khổ, nhưng đối với họ ta phát sinh chỉ vì các đối tượng giác quan. Họ bỏ lỡ mối liên hệ quan trọng nhất: không ai trong số họ nói về vedanā và mối quan hệ của nó với ta. Họ luôn luôn cho rằng các đối tượng của giác quan là nguyên nhân của taTahā là thèm muốn. Mong muốn tiếp tục hoặc có được điều dễ chịu và khao khát loại bỏ hoặc đẩy lùi điều khó chịu. Do đó ta thực sự có cả hai nghĩa thèm muốn và chán ghét (tham và sân).

Việc Đức Phật khám phá ra nguyên nhân thực sự của ta nằm trong vedanā là món quà vô song của Đức Phật dành cho nhân loại. Với một khám phá này, ngài đã cho chúng ta chìa khóa để mở ra cánh cửa giải thoát ngay trong chính chúng ta. Những người khác tuyên bố saāyatana paccayā ta (các giác quan làm phát sinh tham sân); Đức Phật đã khám phá và tiết lộ rằng vedanā paccayā ta (các cảm giác làm phát sinh tham-sân), có nghĩa là phiền não phát sinh ở cấp độ của vedanā và phản ứng đối với vedanā. Điều hợp lý là nếu ta phát sinh để phản ứng đối với vedanā, thì bất kỳ nỗ lực nào để đạt đến gốc rễ của ta và diệt trừ ta phải bao gồm sự hiểu biết về vedanā, kinh nghiệm về nó và kiến ​​thức về cách nó gây ra thèm muốn và chán ghét, và trí tuệ để biết nó có thể được sử dụng như thế nào để diệt trừ ta.

“Một đệ tử của Đức Phật, với sự tập trung, ý thức và sự hiểu biết thấu đáo thường xuyên về vô thường, bằng trí tuệ nhận biết được các cảm giác, sự phát sinh, đoạn diệt của chúng và con đường dẫn đến sự kết thúc của chúng.

Một thiền giả đã đạt đến chỗ tận cùng (đã trải nghiệm toàn bộ lĩnh vực) của các cảm giác (và đã vượt ra ngoài) được giải thoát khỏi tham ái, được giải thoát hoàn toàn” (1).

Đây là lý do tại sao Đức Phật đã thực hành và giảng dạy việc hành thiền bằng cách ý thức về tâm và thân (nāma và rūpa, danh và sắc). Rūpa bao gồm kāya (thân); và vedanā được cảm nhận trên kāya. Nāma bao gồm tâm (tâm thức) và các pháp (tâm sở) phát sinh trên tâm. Vedanā cũng là một cetasika (tâm sở).

Khi Đức Phật nói, sabbe dhammā vedanā samosaraā, điều đó có nghĩa là kinh nghiệm của tất cả các tâm sở bao gồm và không thể tách rời vedanā. Do đó, theo sự hiểu biết của tôi về lời dạy của Đức Phật, không những kāyānupassanā (phương pháp niệm thân hay quan sát thân) và vedanānupassanā (niệm thọ hay quan sát cảm giác) liên quan đến nhận thức về vedanā mà vedanā mà còn tạo thành một phần không thể tách rời của dhammānupassanā (niệm pháp) và cittānupassanā (niệm tâm).

Người hành thiền, dù thực hành kāyānupassanā hay vedanānupassanā hay cittānupassanā hay dhammānupassanā, vẫn tiếp tục ý thức về vedanā. Vị ấy nhận ra hiện tượng sinh khởi của pháp (samudayadhammānupassī) và hiện tượng đoạn diệt của các pháp (vayadhammānupassī) bằng cách duy trì ý thức về vedanā với sự hiểu biết về bản chất vô thường của nó.

Vì vậy, vị ấy không cho phép ta phát sinh để phản ứng với vedanā: vị ấy không phản ứng bằng ta của sự thèm muốn đối với một cảm giác dễ chịu (lạc thọ) cũng như không phản ứng bằng ta của sự chán ghét đối với một cảm giác khó chịu (khổ thọ). Một thiền giả duy trì upekkhā (sự bình tâm hay tâm xả) dựa trên sự hiểu biết về anicca (vô thường).

Cuộc hành trình nội tâm của tôi đã cho tôi thấy rõ ràng rằng, một khuôn mẫu hành vi được hình thành trong bóng tối của sự vô minh, nơi người ta tiếp tục phản ứng bằng sự thèm muốn và chán ghét, một cách có ý thức hay vô ý thức, đối với những cảm giác của thân. Do đó, người ta trở thành nô lệ của khuôn mẫu hành vi của họ và tiếp tục phản ứng trước các cảm giác ở mức độ sâu nhất. Các kilesa anusaya (phiền não tùy miên/ tiềm ẩn/ ngủ ngầm) là núi lửa đang ngủ yên, dạng hành vi tiềm ẩn, phản ứng mù quáng đối với cảm giác.

Khám phá của Đức Phật giúp một thiền giả thoát ra khỏi khuôn mẫu hành vi mù quáng này. Trong số rất nhiều kỹ thuật thiền của Ấn Độ và những nơi khác trên thế giới mà tôi đã gặp gỡ hoặc đã nghe nói về, không có phương pháp nào đi sâu vào căn nguyên của những phiền não của tham ái và sân hận và diệt trừ chúng. Không có phương pháp nào khác để loại bỏ ngay cả những khuynh hướng tiềm ẩn của sự thèm muốn, chán ghét và vô minh được giải thích một cách rõ ​​ràng như vậy. “Hãy xóa bỏ khuynh hướng tiềm ẩn của sự thèm muốn (tham) bằng cách sử dụng các cảm giác dễ chịu (bằng cách quan sát một cách bình tâm các cảm giác dễ chịu trong sự thấu hiểu được bản chất hay thay đổi của chúng), xóa bỏ khuynh hướng tiềm ẩn của sự chán ghét (sân) bằng cách sử dụng các cảm giác khó chịu và loại bỏ khuynh hướng vô minh tiềm ẩn bằng cách sử dụng các cảm giác trung tính” (2). Tôi nhận thức được rằng, đây là một đóng góp độc đáo của Đức Phật cho nhân loại.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là cái mà chúng ta gọi là vedanā là gì? Rõ ràng từ những lời của Đức Phật rằng vedanā (thọ) là một trong bốn uẩn (nhóm/thành phần) của tâm (ba nhóm tâm còn lại là saññā, sakhāra  viññāa – tưởng, hành và thức) và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thoát khỏi khổ. Đức Phật đã coi trọng vedanā mà người ta cảm nhận được trên thân thể. Vedanā mà người ta cảm thấy trên thân được trải nghiệm bởi vedanā khandha (thọ uẩn) của nāma (danh/ tâm), đúng hơn, nó là vedanā khandha của nāmaRūpa (thân) tự nó không thể trải nghiệm những cảm giác phát sinh trên nó. Đối với phương pháp thiền để giải thoát khỏi đau khổ, cảm giác của thân là quan trọng. Điều này không có nghĩa là cảm giác của tâm (somanassa và domanassa – hỷ thọ và ưu thọ hay vui và buồn) bị bỏ qua, mà nó diễn tiến đồng thời.

Truyền thống mà Pháp vị cam lồ từ ái giải phóng con người khỏi mọi khổ đau được gọi là truyền thống của Ledi Sayadaw, thực ra là truyền thống của Đức Phật. Truyền thống này coi trọng tất cả những cảm giác mà người ta cảm nhận được trên thân thể. Khi tôi tham gia khóa học đầu tiên của mình dưới chân ngài Sayagyi U Ba Khin, tôi đã cực kỳ bị thu hút bởi khía cạnh thiền độc đáo này. Khóa học Vipassana đầu tiên của tôi đã cho tôi thấy rằng kiến ​​thức trí năng đơn thuần về bản chất vô thường của hiện tượng tâm và thân chỉ có thể thanh lọc tâm ở một mức độ nào đó. Nó không thay đổi chúng ta ở sâu bên trong tâm, nơi chúng ta vẫn là nô lệ của các khuôn mẫu hành vi của mình và tiếp tục phản ứng trong sự vô minh (thiếu hiểu biết) hoàn toàn.

Tôi đã hưởng được rất nhiều lợi ích từ phương pháp thiền này nên tôi bắt đầu đọc những lời dạy của Đức Phật theo lời khuyên của thầy tôi. Tôi cũng tò mò muốn tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại đánh mất những lời dạy cao quý này. Từ nhỏ tôi đã được nghe nói rằng Đức Phật kết hợp những ưu điểm từ truyền thống của Ấn Độ giáo trong giáo lý của Ngài và sau đó thêm ảo tưởng vào, và Ngài chẳng phát hiện ra điều gì mới.

Kinh nghiệm của tôi hóa ra lại trái ngược với niềm tin này. Tôi thấy những lời Phật dạy rất có ích. Điều này dẫn đến một cuộc khám phá sâu hơn để tìm ra sự thật về những tuyên bố này. Đọc những lời của Đức Phật trong Tipiaka (Tam tạng Thánh điển) đã cho tôi rất nhiều niềm vui! Các thông tin trước đó của tôi hóa ra đã sai lạc biết bao! Nó cho thấy sự nhấn mạnh của Đức Phật về kinh nghiệm thực tế về sự thật. Làm thế nào mà một lời dạy có căn cứ vững chắc trong thực tế lại có thể dẫn đến ảo tưởng? Tôi không tìm ra được dấu vết của sự sai lầm nào trên con đường này.

Đọc những lời của Đức Phật trong Tipiṭaka (Tam tạng Thánh điển) đã cho tôi rất nhiều niềm vui! Các thông tin trước đó của tôi hóa ra đã sai lạc biết bao! Nó cho thấy sự nhấn mạnh của Đức Phật về kinh nghiệm thực tế về sự thật. Làm thế nào mà một lời dạy có căn cứ vững chắc trong thực tế lại có thể dẫn đến ảo tưởng? Tôi không tìm ra được dấu vết của sự sai lầm nào trên con đường này.

Các từ bhāvito bahulīkato – nghĩa là hãy hiểu biết từ kinh nghiệm của chính mình và từ đó đạt được và gia tăng kiến ​​thức  được lặp lại nhiều lần trong Tipiaka. Đức Phật nói đi nói lại, “jāna, passa”  chính mình biết, biết bằng kinh nghiệm của chính mình. Kinh nghiệm thực tế về sự thật, như nó vốn có, đảm bảo rằng không có ảo tưởng hoặc sai lầm, không có trí tưởng tượng hoặc bất kỳ niềm tin mù quáng nào trên con đường này. Những lời của Đức Phật cũng xác nhận kinh nghiệm của tôi rằng cảm giác vật lý của thân là vô cùng quan trọng đối với nghệ thuật giải thoát khỏi mọi đau khổ.

Khi miêu tả Khổ (dukkha) Ngài nói:“Này các Tỳ-kheo, khổ là gì? Này các Tỳ-kheo, nếu có bất kỳ loại đau đớn nào thuộc về thân, bất kỳ loại cảm giác khó chịu trên thân nào hoặc bất kỳ loại cảm giác đau đớn hay khó chịu nào do sự xúc chạm với thân thể này, này các Tỳ-kheo, được gọi là khổ” (3).

Khi miêu tả Ưu (domanassa), Ngài nói: Hỡi các Tỳ-kheo, ưu sầu là gì? Nếu có bất kỳ loại đau đớn nào về tinh thần, bất kỳ loại cảm giác khó chịu nào về tinh thần hoặc bất kỳ loại cảm nhận đau đớn hay khó chịu nào do tiếp xúc với tinh thần – điều này, hỡi các Tỳ-kheo, được gọi là ưu sầu” (4).

Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

Ātāpī và satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý nghĩa của sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là sự quan sát hiện tượng tâm và thân.

Đức Phật dạy:

Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của chúng tôi cho quý vị” (5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

“Thổi qua bầu trời có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được” (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc” (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkhaṃ  lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

“Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn” (8).

Và, “Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh” (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassa và domanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukha và dukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)” (10).

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānasdhyānas – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassa và domanassa (hỷ thọ và ưu thọ) biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā và dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

Chú thích:

(1) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

(2) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

(3) Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

(4) Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

(5) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

(6) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

(7) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

(8) Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

(9) Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

(10) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

(11) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh hành này có phù hợp với lời dạy của Đức Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng – nhiều cơn gió thổi. Tương tự chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

11. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực hành một cách nhiệt thành, tận dụng phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh'9.

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong đớn hay khó chịu nào do tiếp xúc với tinh thần – điều này, hỡi các Tỳ-kheo, được gọi là ưu sầu' (4).

Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ (3).

Khi miêu tả Ưu (domanassa), Ngài nói: 'Hỡi các Tỳ-kheo, ưu sầu về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực hành một cách nhiệt thành, tận dụng dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

' (6).

Tương tự như thế, để kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự style='text-align:justify'>Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ cảm giác đau đớn hay khó chịu nào do sự xúc chạm với thân thể này, này các Tỳ-kheo, được gọi là khổ' thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói là gì? Nếu có bất kỳ loại đau đớn nào về tinh thần, bất kỳ loại cảm giác khó chịu nào về tinh thần hoặc bất kỳ loại cảm nhận đau chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. style='font-size:14px'>Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)'10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác khác nhau phát sinh trong các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để sự đạt được quả vị niết-bàn'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được' chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói (3).

Khi miêu tả Ưu (domanassa), Ngài nói: 'Hỡi các Tỳ-kheo, ưu sầu trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

(4).

Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân nghĩa của sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh'9.

Tôi không cần thêm bằng chứng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được' các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý style='text-align:justify'>Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
' (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác khác nhau phát sinh trong phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh các cảm này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, sự đạt được quả vị niết-bàn'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana style='font-size:14px'>Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý đớn hay khó chịu nào do tiếp xúc với tinh thần – điều này, hỡi các Tỳ-kheo, được gọi là ưu sầu' (4).

sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân />Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

3. Dīgha (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, giả sử gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác khác nhau phát sinh trong của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh'9.

Tôi không cần thêm bằng chứng nghĩa của sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết style='text-align:justify'>Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự sự quan sát hiện tượng tâm và thân.

Đức Phật dạy:

'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân hành này có phù hợp với lời dạy của Đức Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.

Đức Phật nói là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là style='font-size:14px'>Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

7. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

8. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

9. và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>'Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh'.

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh các cảm của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.

Đức Phật dạy:

sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết sự đạt được quả vị niết-bàn'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

11. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu niết-bàn'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh các cảm Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)'10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần sự quan sát hiện tượng tâm và thân.

Đức Phật dạy:

Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>'Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>'Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các nghĩa của sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañña là sự hiểu biết Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu niết-bàn'8.

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Patthāna
(Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy sự quan sát hiện tượng tâm và thân.

Đức Phật dạy:

10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu niết-bàn' (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức />Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>'Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các giác của thân.

Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến chúng tôi cho quý vị' (5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến kinh) 2.4.251.

3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)'10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các sự quan sát hiện tượng tâm và thân.

Đức Phật dạy:

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

'Thổi qua bầu trời niết-bàn' (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn' các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

7. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

8. Paṭṭhāna (Duyên và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)'10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>'Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các chúng tôi cho quý vị' (5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một hệ) 1.1.423.

9. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

11. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

7. Saṃyutta nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ chúng tôi cho quý vị' (5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

'Thổi qua bầu trời biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn' hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến kinh) 2.4.270.

của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

8. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

9. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

'Thổi qua bầu trời biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn' và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)'10.

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

7. Saṃyutta cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

11. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực chúng tôi cho quý vị'
(5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn' (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính niết-bàn' (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

8. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

9. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

'Thổi qua bầu trời là coi trọng cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

11. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

niết-bàn' (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi chúng tôi cho quý vị' (5).

Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của niết-bàn' (8).

Và, 'Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:

'Thổi qua bầu trời đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh' (9).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của khó chịu)' (10).

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một số bạn bè của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

7. Saṃyutta vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc khó chịu)' (10).

Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Một Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

8. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

9. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

10. Saṃyutta định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.

(11) Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.

lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ không thể diễn tả được' (6).

Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:

'Này, các thiền giả, phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này của nāma bám rễ chắc chắn trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi thân.

Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn Roman,Times,serif'>Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

1. Saṃyutta sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

(7).

nāma bám rễ chắc chắn trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ thực hành Vipassana, và là lý do tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa Phật hay không.

Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.

2. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.

3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.

4. Dīgha là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.

'Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức jhānas (jhānas/ dhyānas – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.

5. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.

6. Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.

(7) Saṃyutta Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm Roman,Times,serif'>Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc' (7).

Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn thực hành Vipassana, và là lý do tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.

Đây là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)' (10).

Đức tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañña hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, tâm đã thoát ra khỏi thể xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.

(8) Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

(9) Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.

(10) Saṃyutta khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.

Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh Roman,Times,serif'>Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu tâm đã thoát ra khỏi thể xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thoát.

Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền giải thoát.

S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn: giacngo.vn

---------------------------------

(1) Saṃyutta mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, mù quáng nào.

Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi bhikkhave, pañca vedanā (11).

Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài Phật.

Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng Niết-bàn.

'Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.

Ủy Ban Đại Kết và Đối Thoại Liên Tôn trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

72/12 Trần Quốc Toản, Phường Xuân Hòa, TP. Hồ Chí Minh

Tel: +84.8.3911.8863; Email: doithoailienton@gmail.com; nhipcautamgiao@gmail.com

Copyright © Ủy Ban Đại Kết và Đối Thoại Liên Tôn - HĐGMVN

Đang tải...
TOP