Vedanā trong Duyên khởi

5 /5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 2025-10-21 11:00:17  | RSS

Duyên khởi (pratītyasamutpāda), là nền tảng trong giáo pháp của Đức Phật. Nhấn mạnh tầm quan trọng của nó, Đức Phật đã nói: Người nào thấy được Duyên khởi là thấy Pháp. Người nào thấy Pháp là thấy Duyên khởi. (1)

Duyên khởi giải thích rằng luân hồi (sasāra), tiến trình của những kiếp sống lặp đi lặp lại, kéo dài không dứt bởi một chuỗi các mối liên kết nhân quả phụ thuộc lẫn nhau; lý Duyên khởi cũng tiết lộ phương pháp phá vỡ chuỗi này và chấm dứt tiến trình ấy. Đức Phật đã nói:

Con người với ta (ái) làm bạn đồng hành đã trôi theo dòng luân hồi từ thời vô thủy. Người ta sinh ra, trải qua nhiều loại đau khổ, chết đi chết lại và không kết thúc được tiến trình trở thành không gián đoạn này. (2)

Đây là sasāra, luân hồi, thế giới của khổ đau, như Đức Phật đã giải thích. Ngài còn nói thêm:

Hiểu biết đúng đắn về sự nguy hiểm của tiến trình này, nhận thức đầy đủ rằng ta, ái, là nguyên nhân của nó, thoát khỏi ái và dính mắc (thủ), người ta nên sống một cuộc sống xả ly một cách có ý thức (chánh niệm). (3) 

Ngài nói rằng cách tiếp cận như vậy sẽ mang lại lợi ích to lớn:

Lạc thú là sức mạnh ràng buộc ở thế gian.

Các tiến trình suy nghĩ luôn tiếp diễn là cơ sở luôn thay đổi của nó.

Với sự tận diệt hoàn toàn của ái (thường được dịch là tham ái hay ái dục),

Đạt được trạng thái được gọi là nibbana, Niết-bàn. (4)

Những lời dạy này của Đức Phật mô tả bản chất của vòng luân hồi, trạng thái đau khổ và bản chất của Niết-bàn, trạng thái giải thoát cuối cùng. Nhưng làm thế nào để phát triển được tâm xả ly và diệt trừ được tham ái?

Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha Gotama khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên khởi hay Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

Mỗi mắt xích của anuloma đều dẫn đến dukkha, đau khổ, đó là kết quả của vô minh, là nền tảng của mọi mắt xích. Như vậy, quá trình anuloma làm sáng tỏ hai sự thật cao quý (Thánh đế) đầu tiên: dukkha-sacca, sự thật về khổ, và samudaya-sacca, sự thật về nguồn gốc và sự tăng trưởng của nó. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát ra khỏi bhava-cakka (vòng quay của sự trở thành hay luân hồi) của dukkha. Giải thích cách làm sao để thoát ra, Đức Phật dạy rằng khi bất kỳ mắt xích nào trong chuỗi bị đứt, luân hồi sẽ chấm dứt, dẫn đến chấm dứt đau khổ. Điều này được gọi là patiloma-paticcasamuppada (Lý Duyên khởi theo chiều nghịch) làm sáng tỏ sự thật cao quý thứ ba và thứ tư, nirodha-sacca sự chấm dứt đau khổ và nirodha-gaminl-patipada-sacca, sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Làm thế nào để có thể đạt được điều đó? Dây xích có thể bị đứt ở mắt xích nào? Nhờ tuệ giác sâu sắc, Đức Phật khám phá ra rằng mắt xích cốt yếu là vedanā, thọ hay cảm giác. Trong anuloma-paticcasamuppada, Ngài nói “Vedanā-paccaya-ta”. Vedanā là nguyên nhân của ta, ái, tạo điều kiện cho dukkha, khổ đau sinh khởi. Để loại bỏ nguyên nhân của dukkha và ta, người ta không được phép để cho vedanā kết nối với (đưa đến) ta; nói cách khác, người ta phải thực hành thiền Vipassana vào thời điểm này để vô minh (avijja), trở thành minh (vijja) hay trí tuệ (paññā).

Hành giả phải quan sát vedanā, trải nghiệm và hiểu rõ sự thật về sự sinh diệt của nó, vedanā, vô thường. Bằng thiền Vipassana, khi một người trải nghiệm vedanā một cách đúng đắn, người ấy thoát khỏi ảo tưởng về nicca-saññā (tri giác hay nhận định về sự thường hằng) bằng sự phát triển của vedanā-bodha hay vedanā-vijja (sự hiểu biết hay trí tuệ về vô thường) đối với vedanā. Điều này được thực hành bằng cách bình tâm quan sát sự sinh diệt của vedanā . Với vedanā-bodha, thói quen của tâm thay đổi. Thay vì khuôn mẫu vedanā-paccaya tahā (cảm giác tạo duyên/ tạo điều kiện cho tham hay sân sinh khởi) trước đây, thông qua vedanā-vijja nó trở thành vedanā-paccaya paññā (cảm giác tạo duyên cho trí tuệ sinh khởi). Khi paññā trở nên ngày càng mạnh mẽ hơn, một cách tự nhiên, saññā, tưởng hay tri giác hay nhận định, và cùng với nó, ta, trở nên ngày càng yếu đi. Tiến trình nhân lên của đau khổ với nền tảng của vô minh sau đó trở thành tiến trình chấm dứt đau khổ, với vijja (minh hay trí) làm nền tảng. Khi tiến trình này tiếp tục, sẽ đến lúc có sự ngừng lại (chấm dứt) hoàn toàn của cảm giác và tham-sân – “Vedanā-nirodha, tahā-nirodho”. Trạng thái giải thoát này là một trạng thái vượt ra ngoài tâm và thân, nơi mà cả vedanāvà saññāđều chấm dứt.

Hành giả có thể trải nghiệm điều này trong vài giây, vài phút, vài giờ hoặc vài ngày, tùy theo khả năng của mình, đạt được nirodha-samapatti (trạng thái giải thoát, nhập Diệt thọ tưởng định) bằng cách thực hành Vipassana. Sau thời kỳ nirodha-samapatti, khi quay trở lại lĩnh vực giác quan của tâm và thân, người ta lại trải nghiệm vedanā. Nhưng bây giờ toàn bộ khuôn mẫu thói quen của tâm đã được thay đổi, và việc tiếp tục thực hành dẫn đến giai đoạn mà người ta không còn phát sinh ác cảm hay thèm muốn nữa vì anusaya (phiền não ngủ ngầm) và āsavas (lậu hoặc hay là những bất tịnh có gốc rễ sâu trong tâm thức) đã bị tận diệt. Theo cách này, bằng việc phá vỡ một mắt xích – vedanā, toàn bộ tiến trình bị phá vỡ và vòng luân hồi cũng bị phá vỡ hoàn toàn.

Nếu muốn tiến bộ trên con đường giải thoát, chúng ta phải làm việc (tu tập) ở cấp độ vedanā vì ở đây bánh xe đau khổ có thể được dừng lại. Với vedanā bắt đầu quay bhava-cakka (vòng tái sinh/ luân hồi), (vì avijja) đưa tới vedanā-paccaya ta, gây ra đau khổ. Đây là con đường mà những người u mê (puthujjana) đi theo, vì họ phản ứng với vedanā và tạo ra ta, tham-sân. Và từ đây cũng dhamma-cakka, hay bánh xe diệt khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada) có thể bắt đầu quay, dẫn tới vedanā-nirodhatahā-nirodho – sự chấm dứt thèm muốn, là kết quả của vedanā -vijja hay paññā, đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Đây là con đường mà những người khôn ngoan (sapaññā) đi theo bằng cách không phản ứng với vedanā, bởi vì họ đã phát triển vedanā-bodha nhờ thực hành Vipassana.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khổ.

Nhiều người cùng thời Đức Phật có quan điểm rằng tham ái gây ra khổ đau và để diệt trừ khổ đau người ta phải tiết chế các đối tượng của tham ái. Sau khi học cách khảo sát sâu tâm thức, Đức Phật nhận ra rằng giữa đối tượng bên ngoài và phản xạ bằng tham hay sân trong tâm còn thiếu một mắt xích, đó là vedanā. Bất cứ khi nào chúng ta tiếp xúc với một đối tượng thông qua năm giác quan hoặc tâm, một cảm giác sẽ xuất hiện; và dựa trên cảm giác, tham ái phát sinh. Nếu cảm giác dễ chịu, chúng ta mong muốn kéo dài nó, và nếu cảm giác khó chịu, chúng ta mong muốn loại bỏ nó. Chính trong chuỗi Duyên khởi mà Đức Phật đã diễn đạt sự khám phá vĩ đại của mình.

Phụ thuộc vào sự tiếp xúc, cảm giác phát sinh.
Phụ thuộc vào cảm giác, tham ái phát sinh.
(5)

Do đó, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khổ. Bằng cách phát triển vedanā-vijja (tuệ giác về vô thường), chúng ta học cách cắt đứt những nút thắt của đau khổ và chứng kiến ​​bản chất thực sự của Dhamma. Như vậy, vedanā là nguyên nhân của sự ràng buộc của chúng ta khi không được quan sát một cách đúng đắn, và nó cũng là phương tiện giải thoát khi được quan sát một cách đúng đắn bằng cách hiểu biết Dhamma, lý Duyên khởi hay luật Duyên sinh.

Chân Thông Chiếu dịch
Nguồn: The Importance of Vedanā and Sampajañña, A Seminar Februery 1990 Dhamma Giri, Igatpuri (Hội thảo tháng Hai, năm 1990 Dhamma Giri, Igatpuri, Ấn Độ), t.1.
Nguồn: giacngo.vn

-------------------------------

Chú thích:

(1) Majjhima Nikaya 1.306

(2) Suttanipata 745

(3) Sđd. 746

(4) Samyutta Nikaya 1.1.64

(5) Mahavagga (Vinaya Pitaka)

nghiệm vedanā. Nhưng bây giờ toàn bộ khuôn mẫu thói quen của tâm đã được thay đổi, và việc tiếp tục thực hành dẫn đến giai nhân của ta, ái, tạo điều kiện cho dukkha, khổ đau sinh khởi. Để loại bỏ nguyên nhân (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ Roman,Times,serif'>Những lời dạy này của Đức Phật mô tả bản chất của vòng luân hồi, trạng thái đau khổ và bản chất của Niết-bàn, càng yếu đi. Tiến trình nhân lên của đau khổ với nền tảng của vô minh sau đó trở thành tiến trình chấm dứt đau khổ, style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Đạt được trạng thái được gọi là nibbana, Niết-bàn. (4)

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha Gotama đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

5

Do đó, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó đến) ta; nói cách khác, người ta phải thực hành thiền Vipassana vào thời điểm này để vô minh (avijja), trở tưởng định) bằng cách thực hành Vipassana. Sau thời kỳ nirodha-samapatti, khi quay trở lại lĩnh vực giác quan của tâm và thân, người ta lại trải (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ style='text-align:justify'>Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát đoạn mà người ta không còn phát sinh ác cảm hay thèm muốn nữa vì anusaya (phiền não ngủ ngầm) và āsavas (lậu hoặc hay là những của dukkhata, người ta không được phép để cho vedanā kết nối với (đưa (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão trạng thái giải thoát cuối cùng. Nhưng làm thế nào để phát triển được tâm xả ly và diệt trừ được tham ái?

vijja (minh hay trí) làm nền tảng. Khi tiến trình này tiếp tục, sẽ đến lúc có sự ngừng lại (chấm dứt) hoàn toàn của cảm Roman,Times,serif'>Những lời dạy này của Đức Phật mô tả bản chất của vòng luân hồi, trạng thái đau khổ và bản chất của Niết-bàn, và đau khổ, chúng ta phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên khởi hay style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Mỗi mắt xích của anuloma đều dẫn đến dukkha, đau khổ, đó là kết quả của vô minh, là Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta thành minh (vijja) hay trí tuệ (paññā).

Hành giả phải quan sát vedanā, trải nghiệm và hiểu rõ sự nghiệm vedanā. Nhưng bây giờ toàn bộ khuôn mẫu thói quen của tâm đã được thay đổi, và việc tiếp tục thực hành dẫn đến giai (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ bất tịnh có gốc rễ sâu trong tâm thức) đã bị tận diệt. Theo cách này, bằng việc phá vỡ một mắt xích – vedanā, toàn bộ đến) ta; nói cách khác, người ta phải thực hành thiền Vipassana vào thời điểm này để vô minh (avijja), trở tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô style='text-align:justify'>Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc giác và tham-sân – 'Vedanā-nirodha, tahā-nirodho'. Trạng thái giải thoát này là một trạng thái vượt ra ngoài tâm và trạng thái giải thoát cuối cùng. Nhưng làm thế nào để phát triển được tâm xả ly và diệt trừ được tham ái?

Nhiều người cùng thời Đức Phật có quan điểm rằng tham ái gây ra khổ đau và để diệt trừ khổ đau người ta phải tiết Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự trở nền tảng của mọi mắt xích. Như vậy, quá trình anuloma làm sáng tỏ hai sự thật cao quý (Thánh đế) đầu tiên: dukkha-sacca, đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

vedanā, vô thường. Bằng thiền Vipassana, khi một người trải nghiệm vedanā một cách đúng đắn, người đoạn mà người ta không còn phát sinh ác cảm hay thèm muốn nữa vì anusaya (phiền não ngủ ngầm) và āsavas (lậu hoặc hay là những tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha tiến trình bị phá vỡ và vòng luân hồi cũng bị phá vỡ hoàn toàn.

Nếu muốn tiến bộ trên con đường giải thoát, chúng ta thành minh (vijja) hay trí tuệ (paññā).

Hành giả phải quan sát vedanā, trải nghiệm và hiểu rõ sự minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát thân, nơi mà cả vedanāsaññāđều chấm dứt.

Hành giả có thể trải nghiệm điều này trong vài giây, style='text-align:justify'>Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc chế các đối tượng của tham ái. Sau khi học cách khảo sát sâu tâm thức, Đức Phật nhận ra rằng giữa đối tượng bên ngoài và phản xạ thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức sự thật về khổ, và samudaya-sacca, sự thật về nguồn gốc và sự tăng trưởng của nó. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát ra style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Mỗi mắt xích của anuloma đều dẫn đến dukkha, đau khổ, đó là kết quả của vô minh, là triển vedanā-vijja (tuệ giác về vô thường), chúng ta học cách cắt đứt những nút thắt của đau khổ và chứng kiến ​​bản chất thực ấy thoát khỏi ảo tưởng về nicca-saññā (tri giác hay nhận định về sự thường hằng) bằng sự phát triển bất tịnh có gốc rễ sâu trong tâm thức) đã bị tận diệt. Theo cách này, bằng việc phá vỡ một mắt xích – vedanā, toàn bộ minhhành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô Gotama khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên phải làm việc (tu tập) ở cấp độ vedanā vì ở đây bánh xe đau khổ có thể được dừng lại. Với vedanā bắt đầu thật về sự sinh diệt của nó, vedanā, vô thường. Bằng thiền Vipassana, khi một người trải nghiệm vedanā một cách đúng đắn, người vào thứcdanh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắclục sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ vài phút, vài giờ hoặc vài ngày, tùy theo khả năng của mình, đạt được nirodha-samapatti (trạng thái giải thoát, nhập Diệt thọ vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát bằng tham hay sân trong tâm còn thiếu một mắt xích, đó là vedanā. Bất cứ khi nào chúng ta tiếp xúc với một đối tượng thông qua (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ khỏi bhava-cakka (vòng quay của sự trở thành hay luân hồi) của dukkha. Giải thích cách làm sao để thoát ra, Đức Phật dạy rằng khi bất nền tảng của mọi mắt xích. Như vậy, quá trình anuloma làm sáng tỏ hai sự thật cao quý (Thánh đế) đầu tiên: dukkha-sacca, sự của Dhamma. Như vậy, vedanā là nguyên nhân của sự ràng buộc của chúng ta khi không được quan sát một cách đúng đắn, và của vedanā-bodha hay vedanā-vijja (sự hiểu biết hay trí tuệ về vô thường) đối với vedanā. Điều này được thực hành bằng tiến trình bị phá vỡ và vòng luân hồi cũng bị phá vỡ hoàn toàn.

Nếu muốn tiến bộ trên con đường giải thoát, chúng ta vào thứcdanh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắclục Gotama khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên minhhành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc khởi hay Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự quay bhava-cakka (vòng tái sinh/ luân hồi), (vì avijja) đưa tới vedanā-paccaya ta, gây ra đau khổ. Đây là con đường ấy thoát khỏi ảo tưởng về nicca-saññā (tri giác hay nhận định về sự thường hằng) bằng sự phát triển nhập khởi sinh; nương vào lục nhậpxúc phát sinh; do xúcthọ phát sinh; tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha tưởng định) bằng cách thực hành Vipassana. Sau thời kỳ nirodha-samapatti, khi quay trở lại lĩnh vực giác quan của tâm và thân, người ta lại trải sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ năm giác quan hoặc tâm, một cảm giác sẽ xuất hiện; và dựa trên cảm giác, tham ái phát sinh. Nếu cảm giác dễ chịu, chúng ta mong muốn kéo (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão kỳ mắt xích nào trong chuỗi bị đứt, luân hồi sẽ chấm dứt, dẫn đến chấm dứt đau khổ. Điều này được gọi sự thật về khổ, và samudaya-sacca, sự thật về nguồn gốc và sự tăng trưởng của nó. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát ra nó cũng là phương tiện giải thoát khi được quan sát một cách đúng đắn bằng cách hiểu biết Dhamma, lý Duyên khởi hay luật Duyên cách bình tâm quan sát sự sinh diệt của vedanā . Với vedanā-bodha, thói quen của tâm thay đổi. Thay vì khuôn mẫu vedanā-paccaya phải làm việc (tu tập) ở cấp độ vedanā vì ở đây bánh xe đau khổ có thể được dừng lại. Với vedanā bắt đầu nhập khởi sinh; nương vào lục nhậpxúc phát sinh; do xúcthọ phát sinh; khởi hay Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự vào thứcdanh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắclục trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức mà những người u mê (puthujjana) đi theo, vì họ phản ứng với vedanā và tạo ra ta, tham-sân. Và từ của vedanā-bodha hay vedanā-vijja (sự hiểu biết hay trí tuệ về vô thường) đối với vedanā. Điều này được thực hành bằng do thọtham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn Gotama khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên nghiệm vedanā. Nhưng bây giờ toàn bộ khuôn mẫu thói quen của tâm đã được thay đổi, và việc tiếp tục thực hành dẫn đến giai tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha Gotama dài nó, và nếu cảm giác khó chịu, chúng ta mong muốn loại bỏ nó. Chính trong chuỗi Duyên khởi mà Đức Phật đã diễn đạt sự tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô là patiloma-paticcasamuppada (Lý Duyên khởi theo chiều nghịch) làm sáng tỏ sự thật cao quý thứ ba và thứ tư, nirodha-sacca sự chấm dứt đau khỏi bhava-cakka (vòng quay của sự trở thành hay luân hồi) của dukkha. Giải thích cách làm sao để thoát ra, Đức Phật dạy rằng khi bất sinh.

Chân Thông Chiếu dịch

Nguồn: The Importance of Vedanā and Sampajañña, A Seminar Februery 1990 Dhamma Giri, Igatpuri (Hội thảo ta(cảm giác tạo duyên/ tạo điều kiện cho tham hay sân sinh khởi) trước đây, thông qua vedanā-vijja nó trở quay bhava-cakka (vòng tái sinh/ luân hồi), (vì avijja) đưa tới vedanā-paccaya ta, gây ra đau khổ. Đây là con đường do thọtham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức nhập khởi sinh; nương vào lục nhậpxúc phát sinh; do xúcthọ phát sinh; (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ đây cũng dhamma-cakka, hay bánh xe diệt khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada) có thể bắt đầu quay, dẫn tới vedanā-nirodha, tahā-nirodho – sự cách bình tâm quan sát sự sinh diệt của vedanā . Với vedanā-bodha, thói quen của tâm thay đổi. Thay vì khuôn mẫu vedanā-paccaya đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. khởi hay Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự đoạn mà người ta không còn phát sinh ác cảm hay thèm muốn nữa vì anusaya (phiền não ngủ ngầm) và āsavas (lậu hoặc hay là những khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên khởi hay khám phá vĩ đại của mình.

Phụ thuộc vào sự tiếp xúc, cảm giác phát sinh.

Phụ thuộc vào cảm giác, tham ái minhhành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc khổ và nirodha-gaminl-patipada-sacca, sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Làm thế nào để có thể đạt được điều đó? kỳ mắt xích nào trong chuỗi bị đứt, luân hồi sẽ chấm dứt, dẫn đến chấm dứt đau khổ. Điều này được gọi tháng Hai, năm 1990 Dhamma Giri, Igatpuri, Ấn Độ), t.1.

-------------------------------

1 Majjhima Nikaya 1.306

(2) Suttanipata 745

(3) thành vedanā-paccaya paññā (cảm giác tạo duyên cho trí tuệ sinh khởi). Khi paññā trở nên ngày càng mạnh mẽ mà những người u mê (puthujjana) đi theo, vì họ phản ứng với vedanā và tạo ra ta, tham-sân. Và từ đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ do thọtham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão chấm dứt thèm muốn, là kết quả của vedanā -vijja hay paññā, đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Đây là con đường mà ta(cảm giác tạo duyên/ tạo điều kiện cho tham hay sân sinh khởi) trước đây, thông qua vedanā-vijja nó trở Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức bất tịnh có gốc rễ sâu trong tâm thức) đã bị tận diệt. Theo cách này, bằng việc phá vỡ một mắt xích – vedanā, toàn bộ Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự trở phát sinh.5

Do đó, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó vào thứcdanh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắclục Dây xích có thể bị đứt ở mắt xích nào? Nhờ tuệ giác sâu sắc, Đức Phật khám phá ra rằng mắt xích cốt yếu là patiloma-paticcasamuppada (Lý Duyên khởi theo chiều nghịch) làm sáng tỏ sự thật cao quý thứ ba và thứ tư, nirodha-sacca sự chấm dứt đau Sđd. 746

(4) Samyutta Nikaya 1.1.64

(5) Mahavagga (Vinaya Pitaka)

hơn, một cách tự nhiên, saññā, tưởng hay tri giác hay nhận định, và cùng với nó, ta, trở nên ngày đây cũng dhamma-cakka, hay bánh xe diệt khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada) có thể bắt đầu quay, dẫn tới vedanā-nirodha, tahā-nirodho – sự Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô những người khôn ngoan (sapaññā) đi theo bằng cách không phản ứng với vedanā, bởi vì họ đã phát thành vedanā-paccaya paññā (cảm giác tạo duyên cho trí tuệ sinh khởi). Khi paññā trở nên ngày càng mạnh mẽ đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ tiến trình bị phá vỡ và vòng luân hồi cũng bị phá vỡ hoàn toàn.

Nếu muốn tiến bộ trên con đường giải thoát, chúng ta thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta nhập khởi sinh; nương vào lục nhậpxúc phát sinh; do xúcthọ phát sinh; là vedanā, thọ hay cảm giác. Trong anuloma-paticcasamuppada, Ngài nói 'Vedanā-paccaya-ta'. Vedanā là nguyên khổ và nirodha-gaminl-patipada-sacca, sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Làm thế nào để có thể đạt được điều đó? càng yếu đi. Tiến trình nhân lên của đau khổ với nền tảng của vô minh sau đó trở thành tiến trình chấm dứt đau khổ, chấm dứt thèm muốn, là kết quả của vedanā -vijja hay paññā, đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Đây là con đường mà đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

jarā-maraṇa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài minhhành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc triển vedanā-bodha nhờ thực hành Vipassana.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải hơn, một cách tự nhiên, saññā, tưởng hay tri giác hay nhận định, và cùng với nó, ta, trở nên ngày style='font-family:Times New Roman,Times,serif'>Mỗi mắt xích của anuloma đều dẫn đến dukkha, đau khổ, đó là kết quả của vô minh, là (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão phải làm việc (tu tập) ở cấp độ vedanā vì ở đây bánh xe đau khổ có thể được dừng lại. Với vedanā bắt đầu (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khổ. Bằng cách phát do thọtham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn nhân của ta, ái, tạo điều kiện cho dukkha, khổ đau sinh khởi. Để loại bỏ nguyên nhân Dây xích có thể bị đứt ở mắt xích nào? Nhờ tuệ giác sâu sắc, Đức Phật khám phá ra rằng mắt xích cốt yếu minhhành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhthức khởi sinh; phụ thuộc đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắclục là điều gì đó ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái càng yếu đi. Tiến trình nhân lên của đau khổ với nền tảng của vô minh sau đó trở thành tiến trình chấm dứt đau khổ, nền tảng của mọi mắt xích. Như vậy, quá trình anuloma làm sáng tỏ hai sự thật cao quý (Thánh đế) đầu tiên: dukkha-sacca, tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô quay bhava-cakka (vòng tái sinh/ luân hồi), (vì avijja) đưa tới vedanā-paccaya ta, gây ra đau khổ. Đây là con đường (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão triển vedanā-vijja (tuệ giác về vô thường), chúng ta học cách cắt đứt những nút thắt của đau khổ và chứng kiến ​​bản chất thực đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. của dukkhata, người ta không được phép để cho vedanā kết nối với (đưa