Khái lược về lịch sử và tư tưởng của Đạo Sikh (1)
Tóm tắt
Có thể nói Ấn Độ là đất nước đã sản sinh là nhiều tôn giáo nhất trên thế giới, như Balamoon giáo (Ấn Độ giáo), Phật giáo, Kỳ Na giáo và Sikh giáo. Đạo Sikh là một tôn giáo cải cách ra đời vào đầu thế kỷ thứ XVI ở vùng Penjap miền Bắc Ấn Độ. Tôn giáo này có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ, nhưng sự hiểu biết về nó còn rất hạn chế ở Việt Nam. Bài viết này giới thiệu khái lược về sự ra đời, giáo lý và giáo luật của Sikh giáo.
Trong các nền văn hoá của nhân loại, tôn giáo luôn có một vị trí rất quan trọng. Tôn giáo là một trong những yếu tố đầu tiên và cơ bản trong việc hình thành, bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức của con người. Đối với Ấn Độ, tôn giáo càng có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ trên lĩnh vực văn hóa tinh thần mà ngay cả trên lĩnh vực văn hóa vật chất. Và Ấn Độ là đất nước đã sản sinh ra nhiều tôn giáo vào bậc nhất thế giới. Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu khái lược về đạo Sikh, ra đời ở Ấn Độ vào đầu thế kỷ XVI, mà sự hiểu biết về nó còn rất hạn chế ở nước ta.
1. Lịch sử hành thành và phát triển đạo Sikh
Dưới vương triều Hồi giáo Đêli (1206N1526), Ấn Độ thường xuyên bị phân liệt về lãnh thổ và chính trị bởi các thủ lĩnh Hồi giáo chia nhau cầm quyền ở các địa phương và nhiều lần bị quân Mông Cổ tấn công xâm lược, nhất là ở vùng Tây Bắc rộng lớn. Bên cạnh đó, người Hồi giáo cai trị lại thực hiện chính sách phân biệt tôn giáo. Họ dành nhiều ưu ái, quyền lợi về chính trị, kinh tế cho tín đồ Hồi giáo cũng tức là hạn chế quyền lợi của các tôn giáo khác, trong đó có đông đảo tín đồ Ấn giáo. Cùng với những lí do khác về kinh tế, xã hội đã dẫn đến phong trào đấu tranh của các giáo phái ở Ấn Độ. Những nhà tư tưởng của các phong trào này đều phủ nhận sự phân chia đẳng cấp, đòi bình đẳng của mọi người trước thần linh và chủ trương không phân biệt biệt địa vị xã hội và tôn giáo, tín ngưỡng (1). Trong bối cảnh lịch sử đó, thánh sư Nanak đã sáng lập ra đạo Sikh (Sikhism) vào đầu thế kỷ XVI tại bang Punjab thuộc miền Bắc Ấn Độ cùng chung sống hòa bình với các tôn giáo khác đã có ở Ấn Độ như Ấn giáo (Hinduism), Kỳ na giáo (Jainism), Phật giáo (Buddhism), Hồi giáo (Islam), Thiên Chúa giáo (Catholicism), Do Thái giáo (Judaism)... Đạo Sikh được xem như một tôn giáo cải cách, ra đời trên cơ sở tiếp nhận tư tưởng, giáo luật, lễ nghi... của các tôn giáo đã có ở Ấn Độ như đạo Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo...
Theo tiếng Punjab, Sikh có nghĩa là “môn đệ” hay “học trò”, nó cũng có nghĩa biểu thị sự sùng bái tuyệt đối vào các bậc Đạo sư (Guru). Chữ Sikh được dùng trực tiếp từ gốc chữ Hindi là Sikhna (tiếng Sanskrit đọc là Sikha), có nghĩa là ‘học’, ‘nghe thấy’; trong khi đó Guru là thuật ngữ có nguồn gốc từ chữ Gri của tiếng Phạn (Sanskrit) nghĩalà ‘phát ngôn’, ‘giảng giải’. Guru theo sự hiểu biết của những người Sihk là; ‘Gu’người xua tan vô minh và bóng tối, và ‘Ru’ người
đã giác ngộ, như vậy ‘Guru’ có nghĩa là Đạo sư, là bậc Thầy, Giáo chủ. Nanak được tôn sùng và trở thành một Đạo sư, một nhà lãnh đạo tôn giáo, một Guru chính nhờ công hạnh của Người (2).
Thánh sư Nanak sinh năm 1469 trong một gia đình thuộc đẳng cấp thứ hai, Ksatriya (bao gồm vua chúa, quý tộc, tướng lĩnh) thuộc bộ tộc Bedi tại làng Talwandi gần Lahore. Từ nhỏ, ông được giáo dục là một người theo Ấn giáo. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ người cha, người đã từng làm việc cho ông chủ làng là người Hồi giáo (Muslim), Nanak sớm tiếp nhận và tinh thông cả Ấn giáo (Hindu) lẫn Hồi giáo (Muslim). Lúc nhỏ, ông là một đứa trẻ rất thông minh, sùng đạo và đầy triển vọng, có thể tranh luận cùng với các đạo sư của các giáo phái nhằm giải đáp mọi thắc mắc về tín ngưỡng tôn giáo nói chung. Ở tuổi 16, Nanak trở thành một quan chức chính phủ và được làm quen với thế giới Hồi giáo rộng lớn, gặp gỡ nhiều nhân vật uyên bác và huyền học nhưng vẫn không có được câu trả lời thích đáng cho vấn đề tín ngưỡng, vì thế ông vẫn tiếp tục theo đuổi tìm kiếm đạo lý riêng cho chính mình. Năm 19 tuổi, mặc dù đã tận tâm với đời sống cầu nguyện và thiền định, nhưng ông vẫn cưới vợ và có được hai người con trai. Sau khi lập gia đình, ông đã chuyển đến Sutanpur sống cùng với người anh rể một thời gian. Tại đây, ông và một nhóm người nữa, đã cùng nhau tụ họp vào mỗi buổi sáng và buổi chiều để đọc kinh cầu nguyện và thiền định, dần dần số người đi theo này càng đông tạo thành một cộng đồng lớn để rồi chính thức trở thành một cộng đồng Sikh giáo, có hệ thống tổ chức được công nhận vào năm 1521 (3). Chính ở tại Sutalpur, thánh sư Nanak đã trải qua sự “thực nghiệm tâm linh”, chứng đạt được một vài sự huyền bí, và một trong những chứng nghiệm đó đã được thánh sư Nanak lấy làm nguyên tắc chỉ đạo cho đạo Sikh, khi Người nói:
“Không có Hindu cũng không có Islam, vì thế tôi sẽ theo con đường của ai? Tôi sẽ theo con đường của Thượng đế, Chúa trời không phải Hindu giáo cũng chẳng phải Islam giáo, và con đường tôi theo là con đường của Chúa” (4).
Cho rằng mình là người được Chúa trời chọn mặc khải để cứu giúp nhân loại, Nanak đã từ quan và trở thành nhà truyền giáo đi thuyết giảng khắp Ấn Độ, Hy Mã Lạp Sơn (Hymalayas), Tây Tạng (Tibet), Ceylon (Srilanka) cho tận đến thánh địa Hồi giáo Mecca tại Ả Rập Xê út. Ông đã thăm viếng nhiều trung tâm của Hồi giáo, Ấn giáo và Phật giáo, thuyết giảng về một tôn giáo không chuộng hình thức, và cho rằng “giá trị của con người quan trọng hơn địa vị hoặc giai cấp, hay nói đúng ra là tinh thần (tâm linh) bên trong quan trọng hơn nghi thức bên ngoài”. Trong tư tưởng giáo huấn của Người, thánh sư Nanak luôn khuyên con người hãy “tìm chân lý ở chính bên trong bản thân mình”, (bên trong cái tâm đã được đồng nhất với Thượng đế, Chân Sư (Sat Guru). Đây là tư tưởng cốt lõi của đạo Sikh, là trạng thái tôn giáo tại tâm của con người.
Tôn chỉ của đạo Sikh là ‘Nhất thần giáo’ chỉ thờ duy nhất một vị thần là Chúa Trời – người đã tạo ra vũ trụ và con người, và là đấng tối cao trong tất cả các tôn giáo. Chỗ thờ tự của đạo Sikh gọi là Gurdwara, theo tiếng Punjab nghĩa là ‘Nhà của Thượng đế’ cũng là ‘cổng vào Guru’. Sách kinh thường cầu nguyện của đạo Sikh gọi là Adi Granth, còn gọi là Guru Granth Sahib; chữ viết trong kinh gọi là Gurmukhi; và lời của kinh gọi là Gurbani. Đạo Sikh không có các chức sắc nhưng lại có những con người với các trách nhiệm khác nhau gọi là Granthi và Giani. Gianthi là những người trông coi việc đạo trong các đền thờ Gurdwaras, có bổn phận đọc kinh Guru Granth Sahib và hướng dẫn các buổi cầu kinh hằng ngày. Trong khi đó, Giani là học giả và là người rất thông thạo ngôn ngữ và văn học Punjab. Họ có trách nhiệm giảng giải cho các tín đồ hiểu được nội dung và ý nghĩa trong sách kinh, tuy nhiên, tất cả họ không phải là chức sắc tôn giáo. Nghi thức cầu nguyện trong cộng đồng những người theo đạo Sikh là ngày hai lần (sáng và tối) (5), chủ yếu bao gồm sự thiền định và những bài hát ca tụng của các Gurus. Trong đó, Sodar và Arati được tụng vào buổi chiều và Japti thì được tụng vào buổi sáng sớm dưới sự hướng dẫn của các Granthi.
Truyền thống kế thừa cho ngôi vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo tối cao, được truyền đạt Thánh lý để hướng dẫn cộng đồng của đạo Sikh được ghi chép với 10 thế hệ Gurus truyền thừa, đó là:
1. Guru Nanak (1469 – 1539)
2. Guru Angada (1504 – 1552)
3. Guru Amar Das (1479 – 1574)
4. Guru Ram das (1534 – 1581)
5. Guru Arjan (1563 – 1606)
6. Guru Hargobind (1595 – 1646)
7. Guru Har Rai (1630 – 1661)
8. Guru Har Krishen (1656 – 1664)
9. Guru Tegh Bahadur (1621 – 1675)
10 Guru Gobind Singh (1666 – 1708)
Có một lưu ý nhỏ cần nên biết trong quyền kế vị Gurus của đạo Sikh là từ sáng tổ Nanak đến Guru thứ tư Ram Das thì việc kế thừa là dựa trên phẩm chất và năng lực của chính vị Guru tương lai. Tuy nhiên, từ Guru thứ năm Arjan đến vị guru cuối cùng Govind Singh thì quyền kế vị đơn thuần là cha truyền con nối (6). Điều này dẫn đến lý do tại sao một số Gurus truyền tiếp đã tiếp nhận nhiều lý thuyết có vẻ như khác xa với ý tưởng nguyên bản của Guru Nanak. Mặc dù vậy, tất cả các vị Gurus đã củng cố và phát triển đạo Sikh ngày một lớn mạnh.
Trong thời gian trị vì (1556N1605) của hoàng đế Akbar giàu lòng khoan dung tôn giáo, đạo Sikh nhận được sự khích lệ đáng kể vì tư tưởng tôn giáo của nhà vua tương đồng với tư tưởng Sikh giáo nhằm thực hiện sự hòa đồng tôn giáo hay đoàn kết tôn giáo. Nhiều công trình kiến trúc, nghệ thuật văn hoá của Sikh giáo đã được xây dựng. Guru Ram Das (1534 – 1581) tận dụng sở đất mà hoàng đế Akbar ban tặng, đã xây thành một hồ nước hình vuông rộng lớn gọi là “Amristar” (Hồ rượu tiên hay là hồ mật hoa); chính giữa mặt hồ có một ngôi đền được làm bằng vàng do chính con trai của Guru Ram Das, Guru Arjan xây dựng. Và thế rồi một đô thị lớn, tên gọi Punjab được hình thành, nơi đây được coi là thánh địa của Sikh giáo. Bên cạnh đó, Guru Arjan cũng được biết đến là nhà biên soạn bộ thánh kinh đầu tiên ‘Adi Granth’ và đã thiết lập một hệ thống thu nhập thuế từ những tín đồ Sikh giáo cho những công việc từ thiện. Đạo Sikh thời bấy giờ ngày càng có nhiều ưu thế mãi cho đến đời Guru Teg Bahadur (1621-1675), người đã bị hoàng đế Aurangzeb hành hình mà không rõ lý do. Hành động này đã làm cho những người theo đạo Sikh từ một đạo giá cải cách vốn bình lặng trở thành một giáo phái kiêu hùng gồm những con người sẵn sàng quyết chiến, “tử vì đạo” (đây là một đặc điểm của tôn giáo nói chung mà S. Freud, V.I. Lênin... đã chỉ ra) dưới sự lãnh đạo của Guru Govind Singh, người luôn sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ đạo giáo (con trai của Guru Teg Bahadur).
Guru Govind Singh tuân thủ với những gì Guru Nanak đã dạy. Ngoài ra, ông còn củng cố giáo đồ của mình bằng cách lập ra kiểu rửa tội khai tâm bằng thanh kiếm và đặt ra một số quy lệ phù hợp cho một đạo quân. Ông chịu trách nhiệm dạy dỗ và un đúc lòng dũng cảm chiến đấu cho tín đồ đạo Sikh, nhằm bảo đảm tính sống còn cho đạo giáo này. Ông kêu gọi những người Sikh cùng chí hướng là Khalsa (tiếng Ả rập là Khalas, nghĩa là tinh khiết, thuần tuý) và chỉ dẫn họ gắn thêm thành tố Singh (có nghĩa là sư tử) vào cuối họ tên nhằm để nhấn mạnh bản tính quân đội trong họ (7). Các Khalsa phải tuân theo giới luật riêng ví dụ như không được hút thuốc lá, ngoại tình và ăn thịt các con vật được đem hiến tế.
Dù chỉ là một nhóm thiểu số nhưng Khalsa có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ cộng đồng Sikh giáo. Người Sikh thường mang trên mình 5 dấu hiệu tôn giáo để chứng tỏ sự trung thành với giáo lý của đạo Sikh. Cả 5 dấu hiệu đều được bắt đầu bằng chữ cái K nên được gọi là ngũ Ks – (1) kesh (không cắt tóc và râu) (8), (2) kanga (lược gỗ), (3) kachs (quần mặc trong), (4) kara (vòng kim loại), và (5) kirpan (cây kiếm nhỏ). Biểu tượng của Sikh giáo là lá cờ hình tam giác màu vàng cam, gồm có 3 biểu vật phối hợp với nhau: (1) Khanda – con dao găm hai lưỡi tượng trưng cho sự tự do và công lý, (2) Chakar – hình tròn, cho thấy sự cân bằng giữa 2 lưỡi gươm, thể hiện tính đơn nhất, chỉ có một thần và (3) kirpans – gồm hai lưỡi gươm cong, một đại diện cho tôn giáo, là quyền năng của Chúa (Chân Sư), và cái kia đại diện cho thế sự cũng là năng lực của Chúa, người thống lãnh tín đồ đạo Sikh. Và Ek Onkar là thánh ngữ của đạo Sikh có nghĩa là “Duy nhất một Chúa” được viết bằng tiếng Punjab xuất hiện ở bên ngoài của các ngôi đền Sikh giáo.
Đạo Sikh là một tôn giáo cải cách, ra đời trên cơ sở tiếp nhận giáo lý, giáo luật... của các tôn giáo ở Ấn Độ như Ấn giáo, Hồi giáo..., nên tư tưởng của nó có nhiều điểm tương đồng với các tôn giáo kể trên nhưng vẫn có cái riêng, cái đã tạo nên bản sắc không thể trộn lẫn của đạo Sikh với các tôn giáo khác.
(còn tiếp)
Đặng Văn Chương
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Tịnh Như
Chùa Kiều Đàm, Huế
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 60, 2010.
Nguồn: hueuni.edu.vn
____________________________
Chú thích:
(1) Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh..., Lịch sử thế giới trung đại, Nxb Giáo dục, H, 2003, trang 355.
(2) Merv Fowler, Merv Fowler, David Norcliffe, Nora Hill, and Diane Watkins, World Religions, Sussex Academic Press, 1997 tr. 338 và Marguerite-Marie Thiollier, Từ điển Tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 578
(3) Merv Fowler, Merv Fowler, David Norcliffe, Nora Hill, and Diane Watkins, sđd, tr. 338
(4) Merv Fowler, Merv Fowler, David Norcliffe, Nora Hill, and Diane Watkins, sđd, tr. 337
(5) Có thể nói đây là sự giản lược về nghi lễ Cầu nguyện (Salat) của Hồi giáo. Người Hồi giáo cầu nguyện mỗi ngày 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và trước lúc đi ngủ, còn Sikh giáo chỉ cầu nguyện hai lần vào buổi sáng và buổi tối.
(6) Merv Fowler, World Religions, tr. 339 –351; Cũng xem, Joseph Davey Cunningham, A History of the Sikhs from the Origin of the Nation to the Battles of The Sutles, tr. 39-65.
(7) Thành tố đó đối với nữ giới là Kaur (có nghĩa là công chúa)
(8) Chiếc khăn xếp trùm đầu không phải là một trong ngũ Ks, nhưng bộ râu và tóc dài không cắt cùng với chiếc khăn xếp đó từng được coi là nét văn hoá tiêu biểu của những người đàn ông Sikh.