Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam bộ Việt Nam
Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu (Bà Ma Tổ, Bà Mã Châu) gốc Hoa Nam đã theo bước di dân người Hoa đến Nam Bộ Việt Nam từ các thế kỷ 17- 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu khá phổ biến tại đồng bằng Nam Bộ. Tục thờ này cùng với các hoạt động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một “kho tàng” văn hóa dân gian, ở đó người ta gìn giữ linh hồn của truyền thống, đồng thời cũng là một kênh giáo dục đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc của người Hoa nói riêng, của các tộc người Nam Bộ nói chung. Trong mối tương quan với văn hóa dân gian các tộc người Việt, Khmer và Chăm trong vùng, tín ngưỡng Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng mang bản sắc người Hoa – một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, ngày càng có giá trị lớn lao trong quá trình dung hợp đa văn hóa để tạo nên diện mạo văn hóa Nam Bộ Việt Nam trong suốt 300 năm qua.
1. Nguồn gốc, quá trình phát triển và truyền bá đến Việt Nam
Tín ngưỡng Ma Tổ - Thiên Hậu (Mazu – Tianhou) hình thành tại đảo Mi Châu, Phổ Điền, Phúc Kiến (Meizhou, Putian, Fujian) vào thời Tống ở Trung Quốc. Bà tên thật là Lâm Mặc (林默 Lin Mo) thường được gọi là Lâm Mặc Nương (林默娘 Lin Moniang), sinh ngày 23 tháng 3 năm 960, là một nữ shaman nổi tiếng (Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp 2006: 8-10). Bà vốn là người Đản Dân (Tangka, còn gọi là Long nhân (龙人người Rồng), Giao nhân (鲛人) – một nhánh hậu duệ người Mân Việt (闽越Minyue) cổ chuyên sống bằng nghề cá và trao đổi hàng hóa trên sông, biển.
Thư tịch Trung Quốc Đại Thanh hội điển sự lệ, Bồ Tát ngoại truyện, các sách địa phương chí v.v. có ghi chép: bà Lâm Mặc rất thông minh, tháo vát, giúp dân vượt hoạn nạn và dạy dân cách sống văn minh, thoát bệnh tật. Một ngày nọ bà ngủ trưa, thấy cha và anh trai gặp bão biển, bà dùng năng lực đặc biệt cứu được anh trai. Trong khi đang cố gắng cứu cha thì bà bị mẹ lay dậy nên không cứu được cha. Về sau bà thường dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp dân, bao gồm dạy dân dùng rau rong biển cứu đói, cầu mưa, treo chiếu làm buồm, hàng phục hai thần Thuận Phong Nhĩ và Lí Thiên Nhãn, giải trừ thủy tai – quái phong, thu phục nhị quái, chữa bệnh cứu dân, nhận bùa dưới giếng, thăng thiên ở đảo Mi Châu v.v. (Phan Thị Hoa Lý 2010). Bà qua đời đời ngày 9 tháng 9 năm 987 ở tuổi 28. Người đời tin rằng bà là con gái Ngọc hoàng, ban đầu dân ở đảo Mi Châu dựng miếu thờ bà, gọi là miếu Ma Tổ. Tương truyền bà thường hiển linh cứu giúp người đi biển nên dân gian ví bà là vị hải thần([1]) (Chu Thiên Thuận 1990: 86; Lý Lộ Lộ 1995: 19-23 ; La Xuân Vinh 2006: 1-4)).
Đến năm 1086, nhà Nam Tống chính thức cổ xúy cho tín ngưỡng này, nhờ vậy phạm vi ảnh hưởng càng ngày càng mở rộng. Đến thời Nguyên, Ma Tổ được phong làm Thiên phi (天妃, năm 1354), từ đó tín ngưỡng Ma Tổ phát triển lên vùng hạ lưu Dương Tử, bán đảo Sơn Đông. Từ thời Minh trở về sau do nhu cầu giao thương hàng hải với khu vực Đông Nam Á, tín ngưỡng này truyền bá xuống Lĩnh Nam, Đài Loan và Đông Nam Á. Đời Thanh Khang Hy 1682 , bà được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu. Tên gọi đặc khu hành chính Macau được cho là bắt nguồn từ danh từ “Ma Các” (妈阁 = miếu Ma Tổ). Cuốn Ma Tổ Cung Tập Thành (妈祖宫集成) ghi chép tại Trung Quốc có hơn 450 huyện, thị, thành phố có miếu Thiên hậu. Người Mân Nam (nam Phúc Kiến) và Hải Nam thích gọi bà là Đại Mẫu hoặc Ma Tổ (妈祖Mazu), người Quảng Đông gọi là Đức Bà hay Thiên Hậu.
Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Trung Quốc trải qua gần 1000 năm lịch sử, tồn tại trong mối dung hòa với Đạo giáo, Phật giáo và quan hệ thỏa hiệp với Nho giáo, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa Hoa Nam rất đặc sắc (La Xuân Vinh 2006). Song xét về bản chất, tục thờ này cơ bản vẫn là tín ngưỡng dân gian, mang đầu đủ các đặc trưng truyền thống của dòng văn hóa dân gian phương Nam gần gũi, giản dị. Ở một phương diện nào đó, người Nam Trung Hoa dùng tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với các tín ngưỡng thờ Mẫu khác [2] làm đối trọng với kiểu văn hóa quan phương “nam tôn nữ ti” phương Bắc (Nguyễn Ngọc Thơ 2011). Điều đó có nghĩa là, tín ngưỡng Thiên Hậu thấm đẫm các đặc trưng văn hóa phương Nam, đặc biệt và văn hóa Mân Nam – nơi sản sinh ra nó.
Người Trung Quốc và Đài Loan thờ Thiên Hậu, coi bà là thủy-hải thần, là nữ thần hộ mệnh; nữ thần sinh sôi, nữ thần khai sơn v.v., thi thoảng đồng nhất với Quan âm trong Phật giáo, Tây vương Thánh mẫu trong Đạo giáo, với Lâm Thủy phu nhân, Kim Hoa phu nhân trong tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Hoa Nam.
Tín ngưỡng Thiên Hậu du nhập vào Nam Bộ Việt Nam theo dòng di dân người Hoa vào thời Minh – Thanh, đặc biệt là cuối Minh – đầu Thanh. Đợt 1 vào khoảng thập niên 1660, có khoảng 7000 người Hoa Nam do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (người Quảng Đông) dẫn đầu vào định cư tại Đồng Nai, Đề Ngạn (Chợ Lớn) và Mỹ Tho. Đợt thứ 2 do Mạc Cửu dẫn đầu khai phá đất Hà Tiên, sau phát triển dần xuống bán đảo Cà Mau. Từ cuối thể kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ 20, nhiều dòng di dân người Hoa người tiếp tục đến vùng Nam Bộ, đặc biệt vào cuối thế kỷ 19, Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, các hiệp ước Pháp – Thanh năm 1885 và 1886 đã mở ra nhiều cơ hội để người Hoa di dân đến Việt Nam. Từ đó trở đi, đồng bào người Hoa đã chung sống chan hòa cùng các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer và Chăm, cùng tạo dựng văn hóa Nam Bộ. Hiện tại toàn Nam Bộ có khoảng 800.000 người dân tộc Hoa (2009), phân thành 5 nhóm hệ dân Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (còn gọi là Hẹ). Người Quảng Đông tập trung chủ yếu ở Tp. Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và một số thành phố, thị xã lớn ở Tây Nam Bộ; người Triều Châu cư trú nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau (Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau); người Phúc Kiến và người Hải Nam sinh sống rải rác khắp vùng miền; người Khách Gia định cư rải rác ở Biên Hòa và khu vực hai bên sông Tiền, sông Hậu, nhiều nhất là Long Xuyên. Ban đầu cả 5 hệ dân cùng phối hợp nhau dựng các Thất phủ cổ miếu (Cù lao Phố, Tp. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Vĩnh Long v.v.) chủ yếu thờ Thiên Hậu, Quan Công, nhưng sau từng nhóm tách riêng tự xây cất các miếu cho riêng mình.
Trên đường đi biển, họ thường cầu nguyện Bà hiển linh hỗ trợ. Khi định cư được bình an tại vùng Nam Bộ, di dân lập miếu trang trọng thờ Bà, ngưỡng vọng và thờ tự Bà với tấm lòng biết ơn đã giúp đỡ họ được“thuận buồm xuôi gió”. Theo dòng di dân đến khắp nơi ở Nam Bộ, miếu Thiên Hậu cũng được dựng lên. Về sau, người Hoa còn thờ Bà thêm chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh (Trần Hồng Liên 2005). Chính vì thế rải rác ở các thị tứ, thị trấn, thành phố tại vùng đất Nam Bộ đều có miếu Thiên Hậu với nhiều tên gọi Chùa Bà, Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hay miếu Thiên Hậu. Vùng Bạc Liêu, Cà Mau còn gọi Thiên Hậu là Mã Châu (妈祖 Mazu), do vậy miếu Thiên Hậu còn gọi là Chùa Bà Mã Châu 妈祖婆寺 (tư liệu điền dã 2011). Vùng Sóc Trăng cũng gọi là Ma Tổ, phong cách tác tượng thờ mang nét ảnh hưởng từ Macau và Đài Loan, Ma Tổ gương mặt đen với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai (Trần Hồng Liên 2006).
2. Hiện trạng tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam
Nam Bộ là một trong sáu vùng văn hóa của cả nước (Tây Bắc, Việt Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, ven biển Trung Bộ, Trường Sơn-Tây Nguyên và Nam Bộ), có thể chia tiếp thành hai tiểu vùng gồm vùng Đông Nam Bộ (Tp. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu) với kiểu loại hình kinh tế - văn hóa lấy rừng cao su, cây công nghiệp và lối sống đô thị - thương mại làm trọng tâm; và tiểu vùng Tây Nam Bộ (gồm 13 tỉnh thành đồng bằng Sông Cửu Long là Tp. Cần Thơ Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau) với các đặc trưng lối sống sông nước, lấy kinh tế nông nghiệp lúa nước và nghề nuôi trồng thủy hải sản làm chủ đạo.
Nam Bộ Việt Nam là nơi tập trung đồng bào người Hoa đông đảo nhất (chiếm gần 90% tổng số người Hoa), và do vậy đây là nơi có số miếu Thiên Hậu đông đúc nhất cả nước. Hầu hết các miếu tại đây được xây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, đúng vào các cao trào di cư. Dưới đây là bảng tổng kết số các miếu Thiên Hậu tại các địa phương Nam Bộ [3]:
STT | Tỉnh/thành phố | Số miếu | Tên gọi/Địa chỉ |
1 |
Bình Dương |
5 | Miếu Thiên Hậu Phú Cường (TX. Thủ Dầu Một), Miếu Thiên Hậu tại P. Lái Thiêu (Thuận An), Miếu Thiên Hậu tại Búng (Thuận An), Miếu Thiên Hậu tại Bưng Cầu, Miếu Thiên Hậu tại thị trấn Dầu Tiếng |
2 | Bà Rịa – Vũng Tàu | 2 | Chùa Bà Bà Rịa, Miếu Bà Ngũ Bang Tp. Vũng Tàu |
3 | Đồng Nai | 2 | Miếu Cây Quăn (Bửu Long, Biên Hòa), Miếu Thiên Hậu Hòa Bình (Hòa Bình, Biên Hòa) |
4 |
Tây Ninh |
6 | Miếu Thiên Hậu (Trần Hưng Đạo, TX. Tây Ninh), Minh Nghĩa hội quán, Thất Phủ Hòa An Hậu Minh hương hội, Miếu Gia Gòn (Thanh Điền, Châu Thành), Miếu Thanh An (Thanh Phước, Gò Dầu), Miếu Nhị Phủ (Trảng Bàng). |
5 | Bình Phước | 0 |
|
6 |
Tp. Hồ Chí Minh |
13 | Miếu Tuệ Thành (710 Nguyễn Trãi, Q.5), Ôn Lăng (12 Lão Tử, Quận 5), Hà Chương (802 Nguyễn Trãi Quận 5), Quỳnh Phủ (276 Trần Hưng Đạo Quận 5), Tam Sơn hội quán (116 Triệu Quang Phục Quận 5), Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, Gò Vấp), Miếu Thiên Hậu hội quán Quảng Triệu (132 Nguyễn T. Minh Khai Q.3), Miếu Xóm Chiếu (Q. 4), Hội quán Quảng Triệu (122 Bến Chương Dương cũ, nay là Đại lộ Đông Tây, Q. 1), miếu Thiên Hậu Chợ Quán, miếu Thiên Hậu số 21 Lê Trực (Bình Thạnh), miếu Thiên Hậu Cần Thạnh (Cần Giờ), chùa Bà Thiên Hậu Trung Đông (Thới Tam Thôn, Hóc Môn) |
7 | Long An | 0 |
|
8 |
Tiền Giang |
3 | Miếu Thiên Hậu Mỹ Tho Miếu Thiên Hậu Cai Lậy Miếu Thiên Hậu Cái Bè (hiện bỏ hoang) |
9 | Đồng Tháp | 2 | miếu Thiên Hậu Phúc Kiến (Sa Đéc) miếu Thiên Hậu Quảng Đông (Sa Đéc) |
10 | Bến Tre |
| miếu Thiên Hậu Giồng Trôm, miếu Thiên Hậu Ba Tri, miếu Thiên Hậu Tp. Bến Tre |
11 | Vĩnh Long | 2 | Thất phủ cổ miếu Vĩnh Long Miếu Thiên Hậu Ba Càng |
12 |
Trà Vinh |
3 | Phước Minh cung (Tp. Trà Vinh) Miếu Thiên Hậu Phong Phú (Cầu Kè), Miếu Thiên Hậu Hiệp Hòa (Cầu Ngang). |
13 | An Giang | 2 | miếu Thiên Hậu Khách Gia miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ (Châu Đốc) |
14 |
Kiên Giang |
3 | Miếu Thiên Hậu Rạch Giá Thiên Hậu Cung Rạch Giá Miếu Thiên Hậu Hà Tiên |
15 |
Cần Thơ |
3 | Hội quán Quảng Triệu tại Ninh Kiều, Miếu Thiên Hậu Cái Răng, Miếu Thiên Hậu Ô Môn |
16 | Hậu Giang | 0 | chưa thống kê |
17 |
Sóc Trăng |
5 | Miếu Thiên Hậu Tp. Sóc Trăng, Miếu Thiên Hậu TX. Vĩnh Châu, Hải Phước An Tự (Vĩnh Châu), Miếu Thiên Hậu Mỹ Xuyên, Chùa Bà An Hiệp (Châu Thành) |
18 |
Bạc Liêu |
3 | Vĩnh Triều Minh hội quán (Tp. Bạc Liêu), Miếu Thiên Hậu Vĩnh Trạch (Tp. Bạc Liêu), Miếu Thiên Hậu Gành Hào (Gành Hào) |
19 |
Cà Mau |
6 | Miếu Thiên Hậu Triều Châu (P.2, Tp. Cà Mau), Miếu Thiên Hậu Phúc Lãnh (Tp. Cà Mau), Tam Hưng cổ miếu (ngoại vi Tp. Cà Mau), Miếu Thiên Hậu Sông Đốc (Trần Văn Thời), Miếu Miếu Thiên Hậu xã Phú Hưng (Cái Nước) Miếu Thiên Hậu thị trấn Thới Bình (Thới Bình) |
Tổng cộng | 60 |
Có thể thấy có hai khu vực tập trung miếu Thiên Hậu đông đảo nhất, đó là vùng đô thị Đông Nam Bộ (Tp. Hồ Chí Minh – Thủ Dầu Một – Biên Hoa) của nhóm người Hoa gốc Quảng Đông; và hai là vùng bán đảo Cà Mau do nhóm người Hoa gốc Triều Châu và Phúc Kiến xây dựng.
<