Lịch sử Dòng Anh Em Hèn Mọn - Dòng Phan sinh tại thế
DÒNG PHAN SINH TẠI THẾ
176. Phong trào Phan sinh là một chọn lựa Phúc âm được mở rộng cho mọi người thuộc mọi tầng lớp. Mọi nghề nghiệp. Thánh Phanxicô được coi như là nhà sáng lập Dòng Nhất của anh em, Dòng Nhì của các nữ tu chiêm niệm, và Dòng Ba gồm các nam nữ tu sĩ (Dòng b tại viện) cũng như những người sống giữa trần gian (Dòng Phan sinh tại thế).
177. Lịch sử về những buổi đầu của phong trào Phan sinh cho thấy ba Dòng này được ra đời cùng với nhau, và chúng là dấu chứng tỏ một sự nhận biết duy nhất của Thánh Phanxicô về các dấu chỉ thời đại. Chúng tôi sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện về Lịch sử Dòng Phan sinh tại thế và trình bày đặc sủng của Dòng này cho thế giới hôn nay.
Dòng anh chị em đền tội
178. Từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Dòng những người đền tội là môi trường thiết định để thực hành việc đền tội hoặc do Giáo Hội buộc, hoặc do sự chọn lựa tự do như một đường lối của sự hoàn thiện Phúc âm. "Dòng những người đền tội" rất phổ biến ở thời trung cổ. Nó được hình thành bởi nhiều loại đền tội khác nhau, chẳng hạn hiến sĩ (Oblats), các ẩn sĩ, tu kín, lữ hành. Những Thế kỷ ngày trước Thánh Phanxicô được đánh dấu bởi một chiều hướng đặc biệt nghiêng về đời sống đền tội, nó có chung trong những cuộc canh tânh quan trọng của các thể chế tu trì cộng đoàn và tu ẩn. Chúng ta chỉ cần nhắc đến Thánh Rômualđô (-1027), Thánh Phêrô Đamiani (-1072), Thánh Gioan Gualbert (-1073), cuộc canh tân ở Cluny, Thánh Bernađô ở Clairvaux (1091-1153).
179. Phong trào đền tội trở thành phổ biến sau cuộc canh tân của Đức Giáo Hoàng Grêgôgiô vào cuối thế kỷ 11. Đó là một phong trào tự phát, và lan rộng trong giới giáo dân. Những nét đặc trưng của phong trào này là một đời sống tông đồ, được diển tả qua sự nghèo khó, giảng đơn sơ cho đại chúng, những thực hành đền tội và lòng thương xót đối với những người ngoài lề xã hội và những người phung cùi, v.v...
180. Bản chất tự phát của phong trào đền tội là một khí cụ cho sự phát triển của nó, nhưng cũng là một cơ hội cho các khuynh hướng lạc đạo. Cơ cấu chính thức của Giáo Hội, Tòa Thánh, các Đức Giám Mục, các tu viện, thường ít quan tâm đến sự chổi dậy mạnh mẽ của đời sống Phúc âm phát suất từ hàng ngũ giáo dân. Sự thiếu hướng dẫn này là một trong những nguyên do dẫn đến sự bành trướng của lạc giáo. Đó là trường hợp nhóm Catharê ở Pháp và ở Ý chẳng hạn.
181. Nhu cầu cần có một cuộc canh tân chân thật trong Giáo Hội là do Chúa quan phòng để thúc đẩy Đức Giáo Hoàng trực tiếp can thiếp hầu cứu vãn tính chính thống của các phong trào đền tội giáo dân. Kể từ đầu Thế kỷ 12, các Đức Giáo Hoàng đã che chở cho các nhóm và các hội khác nhau sống đời đền tội. Năm 1195, khi Phanxicô Assisi còn là một chàng trai trẻ, đã có một nhóm những người đền tội thành lập ở miền Bắc Ý mang danh là những người khiêm hạ. Đức Giáo Hoàng Innôxentê III phê chuẩn lối sống hoặc "Propositum : Qui luật" của họ năm 1201. Năm 1208, Ngài phê chuẩn "Propositum" của những người công giáo nghèo Lombarđi. Chúng ta hãy ghi nhận rằng đây cũng là năm trong đó Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng "Propositum Vitae : Qui luật sống" của Anh em Hèn mọn.
Phanxicô Assisi là một người đền tội
182. Trong tờ di chúc của mình, Thánh Phanxicô nói rằng Chúa gọi Ngài để bắt đầu một đời đền tội. Ngay từ những buổi đầu Thánh Phanxicô đã tự coi mình là một người đền tội trên con đường hoán cải. Ngài đã trở thành một hiến sĩ (Oblate) trong nhà thờ Thánh Đamianô (1cél 9). Sau khi đã từ bỏ quyền thừa kế trước mặt Đức Giám Mục Guiđô và thân phụ là ông Bernađônê, Phanxicô đã mặc bộ áo của một người ẩn sĩ nghèo (Truyện ba người bạn 25,27). Danh xưng đầu tiên mà anh em mang, đó là "ViriPoenitentiales de civitate Assisi oriundi: những người đền tội thành Assisi" (Truyện Ba người bạn 37).
183. Thần hứng nguyên thủy để sống theo Phúc âm gắn liền mật thiết với lối sống đền tội, như những đoạn văn từ các nguồn Phan sinh sau đây chứng tỏ cách hùng hồn :
184. "Vì thế, Phanxicô, người chiến sĩ can trường của Đức Kitô, đi đến các thành và các làng loan báo Nước Chúa, rao giảng về hòa bình dạy dỗ về sự cứu độ và sự thống hối để được tha tội ... Đàn ông chạy tới, đang bà chạy tới, các giáo sĩ vội vã, các tu sĩ mau mắn sao cho mình có thể nhìn thấy và nghe người diễm phúc của Thiên Chúa mà tất cả mọi người đều thấy như thể một người thuộc một thế giới khác ("homo álterius saeculi: người của thế hệ khác") ... Nhiều người, cả quí tộc lẫn thường dân, giáo sĩ và giáo dân, được ơn Chúa soi sáng thúc đẩy, bắt đầu đến với Thánh Phanxicô, muốn được trường kỳ chiến đấu dưới luật lệ và dưới sự chỉ huy của ngài. Đối với tất cả những người ấy, người diễm phúc này của Thiên Chúa giống như một con sông dồi dào phúc lộc thiên đường, tuôn đổ những dòng thác tặng phẩm, người làm phong phú những cánh đồng trái tim họ bằng những bông hoa nhân đức, vì người là một tay thợ vô cùng thiện nghệ; và hợp với kế hoạch của Người, với luật lệ, lời giảng dạy, người tuyên bố trước mọi người, Giáo Hội cần phải được canh tân từ cả hai phía, và đạo quân ba cánh của những người đang phục vụ này đang chiến thắng. Người ban cho tất cả mọi người một thể thức sống, và người cho thấy con đường chân thật dẫn đến ơn cứu độ cho mọi giai cấp xã hội." (1Cél 36-37)
185. Phanxicô đã trở thành một tấm gương cho tất cả những ai muốn theo Đức Kitô cách hoàn hảo. Chúng tôi hoàn toàn có lý để được thuyết phục về điều đó. Trước hết, đây là sứ mạng ngài nhận được, là "kêu gọi mọi người khóc lóc và than van, cạo đầu và mặc áo nhặm" (Is 22,12) "và niêm ấn chữ thập trên trán các kẻ hằng rên rỉ kêu lên " (Edêkiel 9,4), ghi dấu lên họ bằng thấp giá của sự đền tội và mặc cho họ chiếc áo của chính mình là chiếc áo được định hình giống như một cây thập giá" (Đại truyện, mở đầu).
187. Các nguồn Phan sinh cho thấy hoàn toàn rõ ràng về những buổi đầu của Dòng Anh em Hèn mọn và Dòng các chị em nghèo khó ở Thánh Đamianô. Những buổi đầu của Dòng những người đền tội do Thánh Phanxicô Assisi thiết lập không được rõ ràng như thế.
188. Dựa theo 2 Célano, 38, một bà quê Cortôna đến ẩn viện Cella, và xin Thánh Phanxicô giúp bà sống đời sống đền tội trong bậc hôn nhân của bà. Truyện Ký Pêrousia, 34, nhắc đến tinh thần đền tội và hoán cải của dân cư ở Grécxiô. Nhưng chính trong truyện Ba người bạn, 60, mà chúng ta tìm thấy một quy chiếu minh nhiên về Dòng những người đền tội: "không phải chỉ các ông mà cả các bà và những cô trinh nữ chưa chồng đều được nung nấu bởi lời anh em giảng, và, theo lời khuyên của anh em họ gia nhập vào các Tu viện được chỉ định để đền tội; và một trong các anh em được bổ nhiệm làm người thăm viếng và hướng dẫn họ. Những ông bà đã kết hôn, bị ràng buộc bởi lời cam kết hôn nhân, được anh em khuyên bảo hãy tự mình dấn thân sống đời đền tội ngay trong nhà của họ". Juliên Spire ghi trong cuốn sách của anh về đời sống Thánh Phanxicô, 14: "Dòng Ba được biết đến như là Dòng những người đền tội. Dòng này không phải được đánh dấu bởi một sự hoàn thiện thấp hơn so với hai Dòng kia. Nó mở rộng cho tất cả các giáo sĩ và giáo dân, các trinh nữ, "những người tiết dục", những đôi vợ chồng, và những người đàn ông lẫn đàn bà có thể đến với dòng vì phần rỗi của mình".
189. Trong sách đại truyện IV, 6 Thánh Bônaventura viết: "bị lôi cuốn bởi sức mạnh lời người rao giảng, một số đông dân chúng đón nhận luật đền tội mới hợp với thể thức Thánh Phanxicô thiết lập mà Ngài gọi là Dòng anh em đền tội".
190. Truyện ký Pêrousia, 41, của một tác giả vô danh, nói rằng Dòng những người đền tội đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn. Đây là một ghi nhận chắc chắn không thể qui về những năm đầu tiên của Lịch sử Dòng Ba.
191. Dựa theo cuốn những bông hoa nhỏ, chương 16, chính trong thung lũng Ombria, gần Canara, mà Thánh Phanxicô đã ban một lối sống cho những người giáo dân nào muốn sống Phúc âm cách triệt để hơn. Nhưng không thể lấy nguồn muộn màng này để qui chiếu về việc thiết lập Dòng Ba được.
192. Truyền thống dân gian cho biết một thương gia giàu có ở Poggibonsi, tên là Lukêsiô, cùng với bà vợ tên là Bônađôna, là những người Dòng Ba Phan sinh đầu tiên. Ông Lukêsiô qua đời ngày 28-4-1260, và đúng là được tôn kính như một "Chân phước", sự tôn kính ông đã được Đức Giáo Hoàng Piô VI phê chuẩn. Truyền thống này thiếu nền tảng lịch sử. Chúng tôi chỉ có thể nói rằng Dòng những người đền tội bắt đầu được biết đến như thế vào năm 1221 với bản "Memoria Propositi: qui luật".
193. Thể thức sống Thánh Phanxicô ban cho những người đền tội bây giờ đã được mọi người thống nhất nhìn nhận là đã được lồng vào trong thư gởi các Tín Hữu, bản dịch thứ nhất.
Lời khích lệ gởi anh chị em Đền tội
194. Anh Eseer gợi lên rằng những buổi đầu của Dòng những người Đền tội hoàn toàn giống như những buổi đầu của Dòng Anh em Hèn mọn. Bản luật 1221 trong trường hợp Dòng Nhất, là kết quả của một tiến trình soạn thảo những chương khác nhau trả lời cho những vấn đề Dòng đã phải đương đầu trong giai đoạn 1210-1221, đó là giai đoạn nằm giữa "Qui luật sống" nguyên thủy được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III phê chuẩn bằng miệng và bản thảo "luật không sắc dụ". Trong trường hợp Dòng những người đền tội, lá thư gởi các Tín hữu, bản dịch thứ nhất, là cái nhân đầu tiên của thể thức sống của những người đền tội. Cùng một lá thư có một bản dịch thứ hai, bàn đến cũng những chủ đề ấy theo một lối chi tiết hơn.
195. Chữ chìa khóa của lá thư gởi các Tín hữu là chữ "Đền tội". Không quan trọng để biết có phải hay không phải Dòng những người Đền tội đã được Thánh Phanxicô thiết lập chính thức một ngày nào đó trước 1221. Bản văn chắc chắn đã có trước ngày đó, và nó là bằng chứng cho thấy Thánh Phanxicô đã ban một thể thức sống cho những người giáo dân muốn sống theo tiếng gọi triệt để của Phúc âm phù hợp với những nhu cầu của họ. Văn thể của lá thư là thể văn khích lệ. Nội dung bàn đến những điểm chính yếu nền tảng nhất của đời đền tội, đó là: giới răn yêu thương dối với Chúa và tha nhân, từ bỏ tội lỗi, tham dự Thánh thể và bí tích giải tội, thực hành các việc từ thiện chứng tỏ đời sống đền tội. Tất cả được thấy như những điều phải thực hiện để chống lại những gì trái nghịch với nền linh đạo hướng về tư cách làm môn đệ của Chúa Kitô trong tương quan ba chiều, vợ chồng, anh chị em, mẹ con (chúng ta là hiền thê, anh chị em, mẹ của Đức Kitô). Phía sau của hình ảnh trên, đó là hình ảnh của người không chịu sống đời đền tội. Thánh Phanxicô mô tả cái chết của người ấy theo một lối thô bạo nhưng chân thực. Thể văn chỉ đơn thuần là một ít lời khuyến khích gởi đến anh chị em muốn sống "hoán cải" theo Phúc âm bằng một con đường triệt để hơn. Chúng tạo thành cái trọng tâm của lối sống của Dòng những người Đền tội.
Bản "Memoria Propositi: Qui luật" (1221)
196. Thời điểm này (1221) được mọi người thống nhất nhìn nhận như là sự khởi đầu chính thức của Dòng Ba (x. Sử biên niên về XXIV Tổng Phục vụ, trong Analecta Franciscana III, 27 ; Batôlômêô Pise. Book of Conformities, trong Analecta Franciscana Iv, 360-361). Có một bản dịch tiếng Anh của "Memoria Propositi" trong "Omnibus of soures: Toàn bộ các nguồn" trang 165-175.
197. Bản "Memoria Propositi" do Đức Hồng Y Hugôlinô, Đức Hồng Y bảo trợ Dòng Anh em Hèn mọn, viết ra, và ban cho Dòng những người Đền tội. Nó đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III chấp thuận bằng miệng năm 1221, và đó là bản văn pháp qui đầu tiên của Dòng Ba Phanxicô. Bản luật được trình bày như một "Bản ghi nhớ những điều đề nghị với anh chị em Đền tội sống trong chính nhà của họ". Nó gồm 8 chương, đề cập đến (1) đời sống hằng ngày của những người Đền tội, liên quan đến cách ăn mặc, không tham gia các cuộc giải trí công cộng; (2) những luật lệ tiết độ (3) những luật lệ về chay tịnh; (4) cầu nguyện và Thần vụ; (5) thực hành các bí tích, cấm mang vũ khí và tránh thề nguyền; (6) thánh thể và họp huynh đệ đoàn mỗi tháng một lần; thăm viếng bệnh nhân, chôn cất kẻ chết và dâng lời cầu nguyện cho họ, buộc phải viết di chúc, những luật lệ về việc tiếp nhận các thành viên mới vào huynh đệ đoàn; (8) vị kinh lý và các luật lệ, việc bầu các chức vụ trong huynh đệ đoàn.
198. Bản "Memoria Propositi" được xây dựng dựa trên ý niệm về Huynh đệ đoàn. Những anh chị em Đền tội thật sự là những anh chị em với nhau, được ràng buộc với nhau bằng tình bác ái đối với nhau. Việc cấm mang khí giới là một chứng ta can đảm cho sự binh an của Phúc âm trong một xã hội đầy tranh chấp, và chắc chắn nó giáng một đòn nặng trên chế độ phong kiến và trên những cuộc chiến tranh vụn vặt giữa các thành thù địch nhau ở bán đảo Ý. Những hoạt động bác ái từ thiện, trong đó có việc chôn cất kẻ chết, và việc thăm viếng chăm sóc bệnh nhân và những người phung cùi, đó là những việc nhắm mục đích xóa bỏ nghèo đói và đau khổ. Tinh thần chia sẻ của cải và luật buộc làm di chúc là để khỏi gây ra những xung đột và thù oán giữa các gia đình đối nghịch và ngay cả giữa những cá nhân trong cùng một gia đình. Những người đền tội thường bị bách hại vì chứng tá về sự bình an của Phúc âm. Đức Giáo Hoàng đã phải can thiếp ngày 30-3-1228 bằng trọng sắc "Detestanda" trong đó Ngài bênh vực quyền của những người Đền tội không mang khí giới và được tự do không gia nhập quân đội. Trong trọng săc này, Dòng những người Đền tội lần đầu tiên được gọi là Dòng Ba.
Những khuôn mặt nổi bật trong thời buổi đầu của Dòng Ba
199. Dòng Ba Thánh Phanxicô ngày nay được gọi là Dòng Phanxicô tại thế (PSTT), là một trường dạy về sự thánh thiện ngay từ thởi buổi đầu. Thật là ngạc nhiên vì nhiều người nổi tiếng gia nhập phong trào này và đã nên thánh. Ở đây chúng tôi sẽ giới thiệu vắn tắt một số những vị thánh quan trọng nhất của Dòng Ba trong các thế kỷ 13 và 14.
200. Thánh bổn mạng Dòng PSTT là Thánh nữ Êlisabét nước Hungary. Bà sinh năm 1207, là công chúa, con vua nước Hungary. Từ rất trẻ bà đã được hứa hôn, và sau đó được kết hôn với Lu-y, con của lãnh chúa Turinô. Cuộc hôn nhân của họ rất hạnh phúc. Bà Elisabét được tự do giành thời giờ và sức lực cho những người nghèo và những người phung cùi, cũng như cho chồng và các con cái. Bà cho xây cất một ngôi bệnh viện lớn ở Eisenach. Năm 1227, vua Lu-y chồng bà tham gia thập tự quân, theo sự điều binh của Hoàng đế Frêđêricô II. Khi mới lên Ý ông đã qua đời. Bà Elisabét bắt đầu bước vào con đường đau khổ của Núi Sọ. Bà là một phụ nữ góa chồng, nhưng những người trong gia đình vua Lu-y đuổi bà và con cái ra khỏi hoàng cung. Bà Elisabét cuối cùng xuống trú ngụ ở Wartburg. Sau khi đã chăm lo việc giáo dục con cái, bà chấp nhận đời sống Đền tội. Bởi thế, Bà đi Maburg ở đó có một ngôi nhà thờ của Dòng Phan sinh. Tại thành phố này, Bà xin cha Conrad làm trợ úy thiêng liêng, cha đưa bà vào Dòng những người Đền tội. Bà dành cuộc đời còn lại để thực hành đền tội và dâng tất cả đời sống cho những người nghèo và các bệnh nhân. Bà Elisabét qua đời ngày 19-1-1231, khi mới được 24 tuổi. Đức Giáo Hoàng Grêôriô IX phong thánh cho bà năm 1235. Bà được đặt làm bổn mạng Dòng PSTT.
201. Anh chị em PSTT có một vị bổn mạng khác, lần này là một Thánh nam. Đó là Thánh Lu-y IX, vua nước Pháp. Ngài sinh tại Poissy năm 1215. Thân mẫu Ngài là Hoàng hậu Planche, bà cũng được coi là thành viên Dòng những người Đền tội. Khi Lu-y mới được 12 tuổi, ngài đã được đội vương miện để làm vua. Thân mẫu ngài tiếp tục cai trị cho đến khi ngài trưởng thành. Trong thời gian đó, ngài cũng được các Anh em Hèn mọn dạy dỗ và gia nhập Dòng những người Đền tội. Là một vị vua Thánh Lu-y rất nhiệt thành tham gia vào một cuộc thập tự quân giải phóng Đất-Thánh. Ngài đã lên đường trong một cuộc thập tự quân, nhưng chỉ mới chiếm được thành Đamietta thì sau đó người bị người Hồi Giáo bắt làm tù binh. Vua Lu-y cũng là một người cha thánh thiện. Ngài có 11 người con và chúng ta còn giữ được tờ di chúc thiêng liêng ngài viết cho người con trai cả, trong đó ngài tỏ ra là một Kitô hữu đạo đức. Vua Lu-y còn nổi tiếng vì lòng sùng kính đối với mũ gai. Ngài đã cho xây cất ở Paris một ngôi nhà thờ đặc biệt để đặt mũ gai này. Ngài đã đi tham gia một cuộc thập tự quân thứ hai năm 1270, nhưng trên đường ngài đã qua đời ngày 25-8, trong một cơn dịch. Đức Giáo Hoàng Bônifagiô VIII đã phong thánh cho ngài năm 1297.
202. Một người đền tội nổi tiếng khác của Dòng Ba là Thánh những Margarita Cortôna. Thánh nữ sinh năm 1247 tại Lavianô, gần Cortôna, nước Ý. Ngài sống thời tuổi trẻ đầy sóng gió, phải chịu những sự hà khắc của mẹ kế. Khi lên 16 tuổi, ngài trốn khỏi nhà để đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong 9 năm ngài sống trong tình yêu say đắm với một thanh niên tên là Arsêniô, người Montepulcianô. Ngài sống với anh ta mà không làm hôn phối. Một ngày kia Margarita tìm thấy người yêu của mình bị sát hại. Đây là khúc quanh trong cuộc đời của bà. Bà đến Cortôna và bắt đầu cuộc sống đền tội bên cạnh ngôi nhà thờ Dòng Phan sinh. Bà xin nhập Dòng những người Đền tội nhưng không được, vì người ta xét đoán bà qua quá khứ tội lỗi của bà. Cuối cùng bà được đón nhận như một người đền tội năm 1277, dưới sự trợ giúp thiêng liêng của các anh Gioan Castiglion Flocence và Giuta Bevegnati. Bà hăng hái làm việc giúp những người nghèo và các bệnh nhân, đã xây cho họ ngôi nhà tình thương "della misericordia". Bà sống phần đời còn lại như một nữ tu kín trong một cái phòng hẻo lánh trên đỉnh đồi Cortôna. Bà qua đời ngày 22-2-1297. Đức Giáo Hoàng Bênôđictô XIII đã phong thánh cho Bà năm 1728.
203. Dòng những người Đền tội quả thật nổi tiếng nhờ các Thánh nữ của mình. Gương thánh thiện mà chúng tôi sẽ giới thiệu cũng là một nhà thần bí lớn, Chân phước Angêla Fôlignô. Angêla sinh năm 1248 ở Fôlignô, gần Assisi. Bà cũng là một người vợ và là một người mẹ. Khi trở thành góa bụa và mất cả các con của mình, bà bắt đầu nghĩ về cuộc sống quá khứ của mình, và bà quyết định làm việc đền tội dưới sự hướng dẫn của cha giải tội. Trong một cuộc hành hương đi viếng mộ Thánh Phanxicô Assisi , năm 1291, bà trải qua một kinh nghiệm thần bí sâu xa mà bà tiếp tục suy nghĩ cả cuộc đời. Ba gia nhập Dòng những người Đền tội. Theo lời khuyên của anh Arnalđô, một anh Phan sinh sống ở Tu-viện-thánh tại Assisi, bà bắt đầu viết lại những kinh nghiệm thần bí của mình. Những kinh nghiệm này được tường thuật trong cuốn tự truyện của bà, và trải dài trong thời kỳ 1285 đến 1296. Là một người đền tội, Angêla trở nên nổi tiếng về những việc bác ái đối với các bệnh nhân và những người phung cùi trong thành phố quê hương của bà. Bà qua đời ngày 4-1-1309, và được Đức Giáo Hoàng Inôxentê XII phong chân phước năm 1693.
204. Một tấm gương cuối cùng về sự Thánh thiện trong những năm đầu của phong trào đền tội Phan sinh do chân phước Raymon Lulla cống hiến: Sinh trên một hòn đảo Major