Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài gòn (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 3440 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS
Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandre VII phái ba Giám mục thuộc Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris sang Á châu mở đầu công cuộc truyền giáo dưới sự chỉ đạo của Thánh Bộ Truyền Giáo. Đức cha Cotolendi Đại diện Tông tòa cho Giáo hội Trung Hoa. Đức cha Pallu Đại diện Tông tòa cho Giáo hội Đàng Ngoài. Đức cha Lambert Đại diện Tông tòa cho Giáo hội Đàng Trong. Ngài đã giao cho các vị Huấn Dụ năm 1659, tóm tắt về ba điểm sau:

1- Huấn luyện ơn gọi cẩn thận theo khả năng và hoàn cảnh cho phép để thiết lập hàng giáo sĩ người bản xứ thánh đức, đông đảo.
2- Hòa mình vào các phong tục tập quán của đất nước bản địa. Tránh dính líu đến những vụ việc chính trị.
3- Không quyết định bất cứ điều gì quan trọng trước khi tham vấn ý kiến của Tòa Thánh.


Trong tinh thần vâng phục, hy sinh, kiên trì bám sát mục tiêu của người chiến sĩ Phúc Âm, các vị Thừa sai nêu cao gương tuân giữ Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh qua Huấn dụ của Đức Giáo Hoàng. Dù phải tù đầy, hao mòn thân xác hoặc phải hiến cả mạng sống, các ngài cũng không tiếc, như lời Thánh Phaolô: “Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1, 24-29). Tín hữu, lương dân và quan quân đương thời không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng và cảm động trước lòng nhân ái, nhiệt huyết của những con người xa lạ, từ đâu không biết. Không là đồng bào, không cùng dòng máu chủng tộc, da vàng mũi tẹt. Những con người học vị cao chưa từng có ở xứ An Nam. Những nhà bác học làu thông những nền văn minh kim cổ. Các ngài lại cùng ăn, cùng ở, cùng học, cùng làm, cùng sống chung với thứ dân hạ cấp, quê mùa, mù chữ, bán khai… Động lực nào? Mục đích nào? Không ai biết! Dân Việt chỉ biết các ngài xả thân không vì danh, không vì lợi…

Gần hai thế kỷ sau, vào đầu thế kỷ XIX, một tờ báo tại Paris đã vẫn tiếp tục đăng quảng cáo tuyển người đi truyền giáo hải ngoại như sau: “Chúng tôi sẽ cống hiến cho các bạn không lương bổng, không bảo hiểm, không người chỉ dẫn, không chế độ hưu trí… mà phải làm rất nhiều công việc nặng nhọc, chỗ ở tồi tàn, rất ít an ủi, rất nhiều thất vọng, đau ốm thường xuyên, một cái chết đau đớn trong cô đơn và một nấm mồ vô danh”. (Saint of the day, January 23, 2005, http://www.americancatholic.org)

Đúng là chỉ có những kẻ điên mới từ giã nếp sống tiện nghi, an nhàn để chuốc vào thân những bất trắc khủng khiếp, cô đơn nghiệt ngả, thiếu thốn mọi bề. Hoặc đó là những vị anh hùng khác thường có trái tim nồng say tình mến Chúa và đồng loại, dám sống, dám chết cho lý tưởng cao vời. Họ nối gót theo vị Tông Đồ Dân Ngoại thành người điên, kẻ dại vì Đức Kitô. Tình yêu có những lý lẽ riêng của nó! ‘Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên thần và loài người ! Chúng tôi điên dại vì Đức Kitô…’ (1 Cor 4, 9-10). Ngày nay, họa chăng chỉ có những người, vì lòng mến, đã dấn thân nơi các thí điểm truyền giáo thuộc thế giới thứ ba, hoặc đến với thổ dân da đỏ, da đen, da nâu… mới có thể đồng cảm với các vị Thừa Sai Dân Ngoại ngày ấy.

NHÀ CHUNG JUTHIA

Ngày 09-09-1659, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII thành lập địa phận Đàng Ngoài gồm khu vực Chúa Trịnh và vương quốc Lào ủy thác cho Đức cha Francois Pallu. Địa phận Đàng Trong gồm khu vực Chúa Nguyễn và xứ Cao Miên giao cho Đức cha Lambert De Lamotte.

Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài gòn (1)
Đức cha Pierre Lambert de la Motte

Đức cha Pierre Lambert de la Motte
Sinh ngày 16-01-1624 tại Lisieux, Pháp quốc.
Năm 1646 làm thẩm phán tòa án Rouen.
27-12-1655: Thụ phong linh mục tại Coutances.
11-6-1660: Tấn phong Giám mục tại Paris đặc trách địa phận Đàng Trong.
22-8-1662: Tới Juthia, thủ đô Thái Lan.
Từ 1669-1676: Đi kinh lược Đàng Ngoài một lần Đàng Trong hai lần.
15-4-1679: Lâm bệnh và qua đời tại Thái Lan.
http:/vi.wikimedia.org/kiwi
1625: Tháng 12, Sãi Vương (Nguyễn Phúc Nguyên) ra sắc chỉ cấm người Việt Nam Công giáo không được mang trên mình hoặc treo trong nhà thánh giá và các ảnh tượng.
1628: Ngày 18 tháng 6, Trịnh Tráng ra lệnh cấm người Việt Nam không được tiếp xúc với các Tây dương Đạo trưởng.


Đức cha Lambert dấn thân đến với giáo dân Việt Nam vào thời Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) cấm đạo, trục xuất các Đạo trưởng gay gắt nhất. Không thể định cư tại Đàng Trong, Đức cha Lambert đành phải đặt trụ sở Giám mục tại Juthia, kinh đô Thái Lan. Ngài là vị Giám mục Đại diện Tông tòa đầu tiên không thường trú tại Việt Nam. Từ Juthia, ngài đi kinh lược ba chuyến tại Việt Nam, lần I tại Đàng Ngoài 1669-1670, hai lần đến Đàng Trong: lần I từ 1671-1672, lần 2 từ 1675-1676.

Nhằm gầy dựng những lớp giáo sĩ bản xứ kế thừa sứ vụ truyền giáo tại vùng Viễn Đông xa xôi này như Huấn Dụ năm 1659, Đức cha Lambert De La Motte đã cầu nguyện và ra sức vận động với quốc vương Thái Lan về việc thành lập một Chủng viện. Năm 1665, Đức cha đã lập được một Trường Chung tại Juthia, có thể thu nhận 100 chủng sinh thuộc các nước trong miền Đông Á. Các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây.

Tháng 3-1668, tại Thái Lan, Đức cha Lambert phong chức hai linh mục Việt Nam đầu tiên của Đàng Trong: Joseph Trang và Luca Bền. Tháng 6, cũng tại Thái Lan, ngài đã phong chức cho hai linh mục Việt Nam đầu tiên của Đàng Ngoài được phong chức là cha Benedito Hiển và cha Gioan Huệ.

Năm 1669 ĐTC giao cho Đức cha Lambert quản nhiệm thêm vương quốc Thái Lan. Tháng 5-1676: Trong chuyến công tác mục vụ tại Đàng Trong vì không quen khí hậu khắc nghiệt miền nhiệt đới, lại thêm chay tịnh quá mức Đức cha đuối sức và ngả bệnh. Về tới Thái Lan sức khỏe yếu dần, ngày 15.4.1679 ngài an nghỉ trong Chúa, vừa tròn 55 tuổi.

Một Giám mục trẻ, ngoài ba mươi tuổi, đã quyết tâm ăn chay trường đến mãn đời, trừ ngày Chúa nhật và Bát Nhật Phục sinh. Mỗi ngày nguyện ngắm ba giờ đồng hồ. Đánh tội hãm xác hằng đêm… Ngài thấu hiểu trọng trách của vị thừa sai là chiến đấu với ác thần để mang các linh hồn về cho Chúa. ‘Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện’ (Mt 17, 21). Giáo hội Việt Nam đang ra sức vận động xin thành lập mở án Chân phước cho ngài, quả là điều hợp tình hợp lý.

Trước lúc qua đời, ngài đã ân cần để lại di chúc sáu điều. Điểm bốn dưới đây, ngài đã di chúc lại cho công trình Chủng viện tông tòa Đàng Trong. Qua đó, chúng ta thấy công tác đào tạo linh mục bản xứ mãi mãi nằm trong quả tim nhân ái của ngài Giám mục Thừa sai thánh đức.

Điều Bốn.- Tôi để lại cho Chủng Viện đã được thiết lập nhằm lo việc hoán cải dân ngoại tại Paris, nơi khu phố Saint-Germain của Paris, tất cả mọi tài sản thuộc về tôi lúc tôi từ trần, thuộc bất kỳ loại nào, từ tiền cho thuê nông trại, của cải thừa kế, các lợi tức thường niên và bổng lộc của chức vụ, các khoản thu nhập, các công trái, v.v., nói chung, tất cả những gì tính được là tài sản để lập nên một ngân quỹ dùng vào việc thiết lập và duy trì chủng viện của giáo phận tông tòa Đàng Trong và việc chăm sóc các kẻ ngoại đang học đạo, các tín hữu và các chủng sinh được nuôi dạy trong chủng viện ấy. Vì việc này, tất cả ngân quỹ trên sẽ được sử dụng ngay sau khi việc trao chuyển tiền bạc được thực hiện tại kinh thành Xiêm La để tạo lợi tức cho mục đích ấy. (http:// daoquangtoan.pagesperso-orange)

Sau khi Đức cha Lambert qua đời, sự nghiệp Chủng viện chung cho miền Đông Á tại Juthia vẫn đứng vững tròn một thế kỷ. Đó là một điều lạ trong một vương quốc mà người Công giáo chưa đến một phần ngàn. Điều đó cho thấy sức mạnh của ơn Chúa, qua lời cầu bầu của Đức cha Lambert trên Thiên quốc. Mãi đến năm 1765, khi quân Miến Điện xâm lấn Thái Lan, Nhà chung Juthia phải đành tàn lụi trong khói lửa chiến tranh.

Nhà trường chung dời về Chantabun thuộc Cao Miên. Các vị Thừa sai rất muốn đưa Chủng viện về định cư tại Nam Kỳ, nơi chứa một kho ơn gọi Thiên triệu dồi dào. Nhưng không thể, vì từ năm 1690 Chúa Nguyễn Phúc Trăn (1678-1690) đến các đời Chúa Nguyễn sau: Nguyễn Phúc Tru (1671-1725), Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) ra sắc chỉ cấm đạo tàn khốc đến cuối thế kỷ XVIII.

Năm 1723: Hai linh mục Dòng Tên người Italia Messari và Buccharelli bị bắt: Messari chết trong tù (23.6.1723) và Buccharelli bị chém đầu (11.10.1723). Đây là hai linh mục người nước ngoài đầu tiên bị hành quyết ở Việt Nam.


(còn tiếp)


Minh Tâm

Nguồn: Vietcatholic News