Đức Giêsu Kitô – Đường Thiên Chúa quan phòng (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 27 | Cật nhập lần cuối: 4/5/2024 5:06:29 PM | RSS

Duc Giesu Kito - Duong Thien Chua quan phong (1)Theo Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Sự quan phòng của Thiên Chúa là những sắp xếp nhờ đó Thiên Chúa hướng dẫn các thụ tạo của mình đến chỗ hoàn hảo mà Ngài đã định cho chúng. Thiên Chúa là tác giả tối cao của kế hoạch Ngài; nhưng để thực hiện kế hoạch đó, Ngài cũng sử dụng sự cộng tác của các thụ tạo. Đồng thời, Ngài ban cho chúng phẩm giá là tự hoạt động và trở thành nguyên nhân cho nhau” (Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 55). Từ ‘quan phòng’ (providence) không phải là từ phổ biến trong Kinh Thánh. Đặc biệt, cụm từ ‘sự quan phòng của Thiên Chúa’ (the divine providence) không bao giờ xuất hiện trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, nghĩa của ‘sự quan phòng’ hay ‘sự quan phòng của Thiên Chúa’, thấm đượm các trang Kinh Thánh từ cuốn đầu tiên (sách Sáng Thế) đến cuốn cuối cùng (sách Khải Huyền). Điều này giúp chúng ta nhận thức tầm quan trọng của chủ đề ‘quan phòng’ đối với mặc khải Kinh Thánh từ Cựu Ước tới Tân Ước.

Trong văn chương Hy Lạp cổ, danh từ ‘πρόνοια/ pronoia’ (quan phòng) phát xuất từ động từ ‘προνοέω/ pronoeō’. Từ này không xuất hiện trong Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái (the Hebrew Bible). Trong Bản Bảy Mươi (Bản LXX, Septuagint), bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái sang tiếng Hy Lạp, từ này xuất hiện hai lần ở sách Khôn Ngoan: “Lạy Cha, chính Cha mới quan phòng [πρόνοια] hướng dẫn vì Cha đã vạch đường giữa biển, rẽ lối an toàn trên sóng nước” (Kn 14, 3) và “Thật vậy, quân vô đạo tưởng thống trị được dân thánh, nhưng chính chúng bị bóng tối giam cầm, bị đêm dài xiềng xích, bị giữ chặt trong nhà, bị loại khỏi sự quan phòng vĩnh cửu [προνοίας ἔκειντο]” (Kn 17, 2). Đối với Tân Ước, từ này xuất hiện hai lần, một lần ở sách Tông Đồ Công Vụ và một lần ở thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma: “Ông Phao-lô bị gọi ra toà, và ông Téctulô bắt đầu tố cáo như sau: Thưa ngài Phêlích đáng kính, nhờ ngài chúng tôi được sống trong cảnh thái bình; nhờ ngài ân cần săn sóc [προνοίας], dân tộc này được hưởng nhiều cải cách” (Cv 24, 2) và “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt [σαρκὸς πρόνοιαν] mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13, 14).

Từ tương đương với danh từ Hy-lạp ‘πρόνοια/ pronoia’ trong tiếng La-tinh là danh từ providentia (sự quan phòng). Danh từ providentia phát xuất từ động từ providere. Động từ này có tiếp đầu ngữ là ‘pro’ (nghĩa là ‘trước’, ‘phía trước’, ‘thay mặt cho’) và động từ videre (với nghĩa là ‘nhìn’, ‘xem’, ‘biết’). Như vậy, providere, nghĩa là ‘foresee/ nhìn thấy trước’ hoặc ‘see toward/ nhìn về phía trước’ hoặc ‘attend to/ hướng tới, chú tâm, cung cấp’. Ngoài ra, động từ này còn được hiểu như là ‘suy nghĩ trước’, ‘chuẩn bị’, ‘giám sát’, ‘chăm sóc’, ‘bảo vệ’, ‘bảo toàn’. Danh từ providentia trong tiếng Latinh được dịch ra tiếng Anh là providence và tiếng Pháp cũng tương tự (providence). Như vậy, sự quan phòng của Thiên Chúa chính là việc Thiên Chúa biết trước những gì trong thế giới thụ tạo, thấy mọi sự trước khi xảy ra, đồng thời, Thiên Chúa thông ban những ân huệ cần thiết để muôn vật muôn loài hướng tới việc thành toàn trong trật tự của chúng. Sự quan phòng của Thiên Chúa còn được hiểu như là sự chăm sóc bảo vệ của Người (the protective care of God) đối với con người và muôn vật muôn loài. Trong bức tranh về sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người và muôn vật muôn loài, chúng ta cùng điểm qua một số nhân vật đặc biệt trong Cựu Ước.

Sách Sáng Thế cho chúng ta biết Thiên Chúa đã chọn Ápraham để thực thi kế hoạch của Người cho gia đình nhân loại. Ápraham kết hôn với Xara. Theo lẽ thông thường, Ápraham và Xara đã già thì không thể sinh con được nữa, nhưng Thiên Chúa quan phòng cho ông bà đứa con theo lời hứa của Người là Ixaác. Để thử thách Ápraham, Thiên Chúa đã chỉ thị ông hiến tế Ixaác. Theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, Ápraham đem Ixaác lên núi để dâng lễ toàn thiêu. Trên đường đi, “Ixaác thưa với cha là ông Ápraham: Cha! Ông Ápraham đáp: Cha đây con! Cậu nói: Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu? Ông Ápraham đáp: Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ" (St 22,6-8). Thiên Chúa quan phòng, Thiên Chúa lo liệu, đó là niềm tin của Ápraham trong hoàn cảnh bi thương này. Ápraham đã vượt qua được thử thách. Sự quan phòng của Thiên Chúa được thể hiện khi Người cho một con cừu đực mắc sừng trong bụi cây. Ápraham nhận ra điều đó và đã bắt lấy con cừu làm của lễ toàn thiêu thay cho con mình là Ixaác. Từ đó, sự quan phòng của Thiên Chúa được thể hiện cách tỏ tường nơi miêu duệ của Ápraham qua muôn thế hệ và lan rộng tới mọi người trong gia đình nhân loại.

Cựu Ước giới thiệu cho chúng ta mẫu gương sáng ngời về sự tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là ông Gióp. Giữa muôn thử thách, đau thương, mất mát gia sản cũng như con cái bị chết, ông Gióp nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: Xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1,20-21). Trong mọi hoàn cảnh, ông luôn thể hiện mình là người chính trực, thánh thiện (G 1, 22). Khi vợ nặng lời, khuyên ông ‘nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi’, ông nói với vợ: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2, 10). Giữa đêm trường của muôn vàn hình thức đau khổ, mất mát dồn dập, ông Gióp đã không thất vọng. Trái lại, càng đau khổ, mất mát, tâm hồn ông càng trong sáng, càng hy vọng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong cảnh dường như bị Thiên Chúa và bạn bè bỏ rơi, ông vẫn hướng về Thiên Chúa là Đấng mà ông tin tưởng sẽ mở ra cho ông chân trời mới mẻ, xán lạn hơn. Ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27). Với ông, Thiên Chúa ‘luôn có lý’ trong mọi lời Người nói cũng như mọi việc Người làm và tất cả đều đem lại lợi ích cho những ai tin tưởng, hy vọng, yêu mến Người. Kinh nghiệm sâu xa về tình thương của Đức Chúa cũng như những đau khổ của bản thân, ông Gióp thưa với Người rằng: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu… Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (G 42,2-6). Trải qua quãng đời nhiều gian nan thử thách, cuối cùng ông đã được Đức Chúa ban nhiều ơn lành hơn lòng ông hằng mong ước.

Một trong những câu chuyện đặc sắc về sự quan phòng của Thiên Chúa trong Cựu Ước là câu chuyện về Giuse, người con trai thứ mười một của Giacóp (Ítraen) bị các anh mình bán sang Ai Cập. Khi tới đất khách quê người: “Ông Pôtipha thái giám của Pharaô và chỉ huy thị vệ, một người Ai Cập, đã mua cậu từ tay người Ít-ma-ên là những người đã đưa cậu xuống đó… Chủ cậu thấy rằng Đức Chúa ở với cậu và mọi việc cậu làm thì Đức Chúa cho thành công… Tài sản của ông, ông phó mặc tất cả trong tay Giuse, và có Giuse thì ông không còn lo gì cả, chỉ biết đến bữa là ăn” (St 39,1-6). Giuse bị tù oan và trong cảnh tù đày, sự quan phòng của Thiên Chúa vẫn luôn thể hiện: “Viên quản đốc nhà tù giao phó cho Giuse hết mọi tù nhân trong nhà tù, và tất cả những gì họ làm, đều do cậu cho làm. Viên quản đốc nhà tù chẳng ngó ngàng chi đến tất cả những việc đã giao phó cho Giuse, vì Đức Chúa ở với cậu, và điều gì cậu làm, thì Đức Chúa cho thành công” (St 39,22-23). Khi dân Do Thái lâm cảnh đói khát thì họ đã tới Ai Cập. Nhờ Giuse, dân này mới thoát cảnh chết đói. Chính Giuse nói chuyện với các anh mình: “Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em, để giữ cho anh em một số người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải thoát vĩ đại. Vậy không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa. Người đã đặt tôi làm cha của Pharaô, làm chúa tất cả triều đình, và làm tể tướng trên khắp cõi Ai Cập” (St 45,7-8) hay “Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo” (St 50, 20). Giuse cũng nói với các anh mình: “Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh” (St 50, 21). Câu chuyện Giuse ở Ai Cập ứng nghiệm lời hứa và giao ước của Thiên Chúa với Ápraham: “Ngươi phải biết rằng dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất không phải của chúng” (St 15, 13).

Câu chuyện của vua Đavít đáng để được chúng ta quan tâm. Tội ông thật lớn nhưng tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa còn lớn hơn (2 Sm 12,13). Đặc biệt, ông luôn đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, khi được tin con trai của mình với bà Bát Seva đau nặng, Đavít đã cầu nguyện, ăn chay, nằm đất khẩn khoản Thiên Chúa cho đứa bé được khỏi. Sau bảy ngày, đứa bé chết. Đavít vẫn đặt niềm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách hành xử của Đavít khiến mọi người bỡ ngỡ: “Vua Đavít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi vua vào Nhà Đức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa, và vua đã ăn” (2 Sm 12, 20). Đavít biết rằng tâm trạng buồn thảm không thích hợp khi đứa trẻ đã chết: “Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở lại với ta” (2 Sm 12, 23). Sau đó, Đavít ăn ở với bà Bát Seva và Salômôn được sinh ra. Đavít không hiểu được chương trình của Thiên Chúa, tuy nhiên, Đavít luôn tin tưởng sự quan phòng của Người. Đavít phạm tội nặng, nhưng được tha thứ vì ông sám hối ăn năn. Ông được gọi là vua thánh, sự thánh thiện của ông là sự thánh thiện của người biết thống hối ăn năn và đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Cựu Ước cung cấp cho chúng ta vô số trình thuật về sự quan phòng của Thiên Chúa. Chẳng hạn, dưới nhãn quan của các tác giả Thánh Vịnh, không gian, thời gian và những gì trong đó cùng diễn tả sự quan phòng của Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 19,2-3) hay “Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147, 4). Muôn vật muôn loài được tồn tại là nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn. Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thỏa thuê ơn phước. Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104,27-30); “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145, 9). Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta nhận thức rằng sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người lớn hơn nhiều so với giữa con người với nhau, chẳng hạn, Thiên Chúa phán: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15) hay “Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con. Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!” (Tv 139,4-6). Đặc biệt, Thiên Chúa mời gọi một số người tham dự kế hoạch của Người đối với dân Do-thái, chẳng hạn, Người nói với ngôn sứ Giêrêmia: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1, 5). Ý định và hành động của Thiên Chúa không theo bất cứ tiêu chuẩn hay thể thức nào của nhân loại: “Chúa đảo lộn chương trình muôn nước, Người phá tan ý định chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền vững, ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn” (Tv 33,10-11). Những trình thuật về sự quan phòng của Thiên Chúa trong Cựu Ước giúp con người nhận diện rõ nét hơn về sự quan phòng của Người trong Tân Ước được tỏ bày nơi Biến Cố Đức Giêsu giữa lòng nhân loại.

Gia phả Đức Giêsu theo thánh Mátthêu cho chúng ta biết rằng những con người được đề cập nơi gia phả đều đóng vai trò đặc biệt trong sự quan phòng của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại (Mt 1,1-17). Thông thường, dưới nhãn quan người trần, các bậc vị vọng trong lịch sử thường xuất thân từ những gia tộc thế giá, ‘không vướng bợn nhơ’. Tuy nhiên, gia phả của Đức Giê-su không theo thể thức đó. Chẳng hạn, Giuđa lấy Tama là phụ nữ ngoại tình (St 38,1-30); Xanmôn lấy Rakháp là gái điếm ở Giêrikhô (Gs 2,1-17); Bôát lấy Rút là dân ngoại (R 1, 4); Đavít lấy Bát Seva là vợ của Uria (2 Sm 11,1-27). Như vậy, gia phả Đức Giêsu bao gồm những nhân vật ‘vĩ đại’ lẫn ‘tầm thường’; những người trung tín với lề luật Thiên Chúa cũng như những người tội lỗi; những người Do Thái thuần chủng cũng như những người ngoại bang; những người làm cho dân tộc Do Thái hùng cường cũng như những người đẩy dân tộc tới cảnh lầm than khốn khổ; những người đem lại tự do cũng như những người dẫn người khác tới cảnh nô lệ. Những con người khiếm khuyết, bất xứng, tội lỗi dưới con mắt người đời như vậy lại trở thành ông bà tổ tiên của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống trong thân phận con người. Đây quả là điều khó hiểu đối với chúng ta nhưng lại nằm trong bức tranh lớn của kế hoạch Thiên Chúa đối với con người và toàn thể thế giới thụ tạo. Gia phả ‘bất thường’ của Đức Giêsu được sáng tỏ nhờ sự hiện diện và hoạt động của Người, Đấng kêu gọi mọi người hiệp nhất nên một với nhau trong Gia Đình Thiên Chúa, không phân biệt Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, tội lỗi hay thánh thiện, giàu sang hay nghèo khó.

Cuộc đời Đức Maria diễn tả sự quan phòng diệu kỳ của Thiên Chúa. Sau Biến Cố Truyền Tin, Đức Maria trỗi dậy, vội vã lên đường viếng thăm gia đình bà Êlisabét. Ở đây, Đức Maria đã cất lên bài ca ‘Ngợi Khen’ (Magnificat). Bài ca này cho chúng ta biết chương trình của Thiên Chúa không giống với chương trình của con cái loài người. Nội dung chính của bài ca này diễn tả sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Đức Maria nói về sự quan phòng của Thiên Chúa đối với bản thân mình: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,48-49). Đức Maria cũng nói về sự quan phòng của Thiên Chúa đối với những người khiêm tốn: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Vì luôn gắn bó với Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện, Đức Maria nhận diện rõ hơn sự quan phòng của Người. Giữa muôn thăng trầm của cuộc đời, Đức Maria hướng tâm trí mình về phía Thiên Chúa, nhận diện những dấu chỉ của Người, đọc những dấu chỉ đó và sống theo thánh ý Thiên Chúa cách trung tín nhất.

Tương tự như Đức Maria, thánh Giuse (bạn trăm năm của Đức Maria) luôn ý thức về sự quan phòng của Thiên Chúa trong đời sống ngài. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta biết Đức Maria và Dacaria được sứ thần Gáprien truyền tin về việc sẽ có con trai khi các ngài đang tỉnh thức (Lc 1,5-38). Còn thánh Giuse thì sứ thần Thiên Chúa truyền tin trong những giấc mơ (Mt 1,20-21; Mt 2, 13; Mt 2,19-20; Mt 2, 22). Chẳng hạn, trong giấc mơ đầu tiên, khi thánh nhân và Đức Maria đã thành hôn nhưng chưa chung sống với nhau thì Đức Maria mang thai. Thánh Giu-se biết rằng người con Đức Maria cưu mang không phải con mình nhưng ngài đã không đối xử với Đức Maria như những người Do Thái đương thời là tố cáo Đức Ma-ri-a giữa ba quân thiên hạ. Trái lại, thánh nhân tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, lắng nghe lời của sứ thần và đón nhận Đức Maria về nhà mình. Cuộc đời thinh lặng và cách thức hành động của thánh nhân để lại cho mọi người trong gia đình nhân loại mẫu gương sáng ngời về việc tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong tiếng Do Thái, tên Giuse (יוֹסֵף‎/ Yosef, Joseph) có nghĩa là ‘nguyện Thiên Chúa gia tăng’ hay ‘nguyện Thiên Chúa cho lớn lên’. Quả thực, với sự cộng tác của thánh nhân, Thiên Chúa khôi phục và gia tăng phẩm giá của mọi người trong gia đình nhân loại. Cụ thể là nhờ sự cộng tác của Giuse, ‘Giêsu’ đem lại ơn cứu độ cho nhân loại, nghĩa là giúp con người ‘đi lên’ từ vực thẳm tội lỗi và sự chết để được hiệp hoan cùng Thiên Chúa hằng sống.

Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, sự quan phòng của Thiên Chúa đối với Giuse, người con trai thứ mười một của Giacóp thật đặc biệt. Nhiều chi tiết của câu chuyện này tương đồng với ‘câu chuyện của Đức Giêsu’ trong Tân Ước, chẳng hạn như: (1) Giuse là con yêu dấu của Giacóp, Đức Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha; (2) Giuse đến Ai Cập thời thơ ấu, Đức Giêsu cũng đến Ai Cập thời thơ ấu, (3) Giuse bị các anh mình bán sang Ai Cập, Đức Giêsu cũng bị Giuđa bán cho quân dữ; (4) các anh trai nhà Giacóp bán Giuse cho người Ítmaên theo giá của một nô lệ, Giuđa bán Đức Giêsu cho ‘quân dữ’ với giá của một nô lệ, (5) Giuse đến Ai Cập như là một nô lệ, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã mang thân phận nô lệ trong hành trình trần thế; (6) khi các anh của Giuse tới Ai Cập, họ không nhận ra Giuse là em mình, khi Đức Giêsu hiện diện giữa gia đình nhân loại, người ta cũng không nhận ra Người; (7) Giuse là mục tử chăn chiên, Đức Giêsu cũng làm mục tử chăn chiên, Mục Tử nhân lành, (8) Giuse đã cứu dân Do Thái, Đức Giêsu cứu mọi người trong gia đình nhân loại; (9) Giu-se lo cho dân Do Thái có đủ lương thực phần xác, Đức Giêsu cho gia đình nhân loại Bánh Hằng Sống (Bí Tích Thánh Thể), nuôi sống mọi người trong hành trình về với Nước Thiên Chúa viên mãn.

Trước khi loan báo Tin Mừng cách công khai, Đức Giêsu đã chịu ma quỷ cám dỗ bốn mươi đêm ngày trong sa mạc. Nơi đây, Đức Giêsu tỏ bày sự quan phòng của Thiên Chúa. Người dựa vào lời Chúa để chống lại ma quỷ. Chẳng hạn, trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu cho chúng ta biết khi quỷ nói với Đức Giêsu truyền cho đá hóa bánh mà ăn thì Người đáp: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4); Khi quỷ dặn Đức Giêsu gieo mình xuống từ nóc đền thờ thì Người đáp: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7). Khi quỷ nói với Đức Giêsu sấp mình lạy nó thì Đức Giêsu nói: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4, 10). Ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu liên quan đến của ăn, danh dự và vinh quang trần thế. Quỷ đã dùng những phương cách mà con người dễ dàng gục ngã để cám dỗ Đức Giêsu nhưng đã thất bại vì Đức Giêsu luôn thực thi thánh ý Thiên Chúa. Quả thực, đúng như lời của tác giả thư gửi tín hữu Do Thái: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15). Trong mọi sự, Đức Giêsu để lại cho mọi người bài học về việc phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa bởi vì nhờ sự quan phòng của Người, con người mới có thể vượt thắng muôn vàn hình thức cám dỗ của ma quỷ trong cuộc sống mình.

Đối với Đức Giêsu, sự quan phòng của Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới địa lý cũng như luân lý, bởi vì: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta biết rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng tại Nadarét miền Galilê, ngày sabát, Người vào hội đường và người ta trao cho Người sách ngôn sứ Isaia. Mở sách ra, Người gặp đoạn nói về mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó, Người giảng dạy và mọi người thán phục vì những lời hay ý đẹp từ miệng Người. Tuy nhiên, dân thành Nadarét vẫn cứng lòng. Sau đó, Đức Giêsu nhắc họ về hai câu chuyện trong quá khứ: Câu chuyện thứ nhất về việc ngôn sứ Êlia đến giúp bà góa thành Xarépta miền Xiđôn trong thời gian hạn hán, đói kém. Câu chuyện thứ hai về việc Êlisa chữa bệnh phong hủi cho Naaman, người Xyri. Các thính giả Do Thái phẫn nộ với lời của Đức Giêsu: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi - họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30). Chúng ta có thể nói rằng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Đức Giêsu ‘không thể chết’ trong bối cảnh này, khi việc loan báo Tin Mừng mới bắt đầu chớm nở.

Đức Giêsu tỏ bày sự quan phòng của Thiên Chúa đối với các môn đệ thân cận cũng như những ai theo Người khi can thiệp vào các quy luật tự nhiên. Chẳng hạn, Người làm cho gió biển yên lặng để an ủi, trợ giúp các môn đệ trong cơn sợ hãi: “Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4,39-41). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu cho chúng ta biết rằng sau khi hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu cho các môn đệ xuống thuyền mà sang bờ bên kia trước, còn Người thì lên núi cầu nguyện một mình. Khoảng canh tư, Đức Giêsu cũng đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ đang khi thuyền ngược gió và bị sóng đánh. Thấy Đức Giêsu, họ tưởng là ma và hô hoán lên. Đức Giêsu nói với họ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27). Khi Đức Giêsu lên thuyền thì gió lặng ngay. Các môn đệ ngạc nhiên, bái lạy Đức Giêsu và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14, 33).

Đức Giêsu cho mọi người thấy sự quan phòng của Thiên Chúa không chỉ dành cho con người mà còn cho muôn vật muôn loài, nghĩa là Thiên Chúa quan tâm chăm sóc hoa đồng cỏ nội, cây cối núi rừng, muôn trùng chim thú. Đặc biệt, Người dùng hình ảnh sự quan phòng của Thiên Chúa đối với vạn vật để minh chứng sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người. Chẳng hạn, khi đề cập sự lo lắng của con người về của ăn hằng ngày, Người nói:”Hãy xem chim trời: Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6,25-26). Lời của Đức Giêsu gợi lại cho chúng ta tư tưởng của tác giả Thánh Vịnh 84: “Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ, ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa!” (Tv 84, 4). Khi đề cập sự lo lắng của con người về áo mặc, Người nói: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,28-30). Quả thực, cơm ăn áo mặc luôn là sự quan tâm hàng đầu của con người qua mọi thời đại. Tuy nhiên, Đức Giêsu mời gọi mọi người tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa bởi vì sự lo lắng thái quá sẽ làm cho con người chỉ quan tâm đến ‘cơm áo thể lý’ mà bỏ quên ‘cơm áo linh thiêng’, cơm áo cho phép con người sống xứng đáng với phẩm giá mình trong hành trình trần thế cũng như định hướng con người về Quê Hương vĩnh cửu. Quả thực, khi giảng dạy dân chúng, Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Sau này, thánh Phaolô mời gọi mọi người: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13, 14). Như vậy, để sống trong sự quan phòng của Thiên Chúa, mọi người được mời gọi ‘ăn Đức Kitô và mặc Đức Kitô’ ngay trong hành trình trần thế này.

Đức Giêsu mời gọi những ai muốn theo Người biết nhận ra đâu là ưu tiên trong cuộc sống. Khi diễn giải bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giêsu nói: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,31-32). Với Đức Giêsu, ý thức về sự quan phòng của Thiên Chúa đi đôi với việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Theo đó: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: Ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Đức Giêsu không khuyến khích mọi người hãy ‘ép xác lấy hồn’ hay ‘hãy lo xa’ nhưng hãy sống giây phút hiện tại cách sung mãn nhất, nghĩa là ‘hãy lo gần hay hãy lo hiện tại’ bởi vì những gì ở xa chỉ có thể chuẩn bị bằng những gì ở gần, những gì trong hiện tại. Tuy nhiên, ‘ở gần’ hay ‘hiện tại’ luôn có nhiều chuyện và lắm lúc con người lẫn lộn không biết đâu là ưu tiên trong việc chọn lựa của mình. Đức Giêsu chỉ cho cách là ‘hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người’. Đồng thời, Người cũng cho biết Nước Thiên Chúa không giống bất cứ nước nào trong gia đình nhân loại. Câu hỏi về Nước Thiên Chúa không phải là câu hỏi về cái gì (what) mà là câu hỏi về ai (who). Đức Giêsu cho chúng ta biết rằng sự hiện diện của Người là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, sự hiện diện của Giáo hội do Người thiết lập là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, đặc biệt, Nước Thiên Chúa sung mãn khi Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Người.

Đức Giêsu không chỉ cho các môn đệ biết về sự quan phòng của Thiên Chúa mà còn giúp họ hiểu cách thức Thiên Chúa quan phòng. Người giảng dạy và thực hiện các phép lạ để tỏ bày sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, xem ra các môn đệ không hiểu biết đúng về Thầy mình. Chẳng hạn, khi các môn đệ lên thuyền mà chỉ đem theo một chiếc bánh. Họ bàn tán với nhau mà không ý thức đủ rằng Đức Giêsu đang ở với họ. Đức Giêsu nói với họ: “Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao: Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” (Mc 8,17-19). Các môn đệ đã trả lời Người về hai biến cố trước đó khi Người hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh của một em bé và khi Người hóa bánh ra nhiều cho hơn bốn ngàn người ăn từ bảy chiếc bánh. Sau đó, Đức Giêsu bảo họ: “Anh em chưa hiểu ư?” (Mc 8, 21). Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quan phòng đang hiện diện với các môn đệ nhưng họ không ý thức đủ về quyền năng và lòng thương xót của Người. Đồng hành với Đức Giêsu nhưng xem ra các ông không nghe, không hiểu, không thấy những gì mình đã chứng kiến. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc họ, Đức Giêsu quan phòng chăm sóc họ nhưng tâm trí họ vẫn đâu đó chứ chưa hiệp nhất nên một với Người.

Tương tự như vậy, trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan cho chúng ta biết rằng trong tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, khi Đức Maria nói với Đức Giêsu rằng họ đã hết rượu, Người nói với Đức Maria: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến" (Ga 2, 4). Đức Giêsu vẫn theo ‘thì’ Thiên Chúa quan phòng chứ không theo ‘thì’ của người khác. Trong bối cảnh trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an, chúng ta còn gặp nhiều biến cố tương tự. Chẳng hạn, những người Do Thái tìm bắt Đức Giêsu vì Người chữa bệnh trong ngày sabát cũng như trình bày tương quan mật thiết giữa Người với Chúa Cha: “Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến” (Ga 7, 30); trong cuộc tranh luận về lời chứng của Đức Giêsu liên quan đến bản thân Người, khi những người Pharisêu nghe Đức Giêsu làm chứng về Người cũng như tuyên bố rằng Chúa Cha làm chứng về Người thì họ định bắt Người nhưng “không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến” (Ga 8, 20); khi Đức Giêsu nói về tương quan giữa người và Ápraham (Người có trước Ápraham) cũng như nói rằng Người Hằng Hữu thì dân Do Thái lượm đá để ném Người nhưng Người lánh khỏi Đền Thờ (Ga 8,58-59). Nói rằng Người có trước Ápraham, cao trọng hơn Ápraham đã là xúc phạm lớn đối với dân Do Thái. Tuy nhiên, nói rằng ‘Tôi Hằng Hữu’ lại còn xúc phạm lớn hơn bội phần bởi vì chỉ có Thiên Chúa Hằng Hữu (Xh 3, 14). Những người Do Thái tìm cách ném đá Đức Giêsu nhưng ‘giờ của Người chưa đến’. Chương trình của những người Do Thái là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội của họ nhưng chương trình của Thiên Chúa lại không như vậy, bởi vì Đức Giêsu còn tiếp tục giảng dạy, chữa bệnh và mặc khải về tương quan giữa Người với Thiên Chúa. Thánh Gioan cũng trình thuật: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13, 1). Như vậy, chương trình của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu huyền diệu hơn mọi hiểu biết và toan tính của con người.

Giuđa Ítcariốt là một trong mười hai môn đệ Đức Giêsu lại trở thành nhân vật phản diện (ἀνταγωνιστής/ antagonist) trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Là người tham lam, bất tín, chiều theo cám dỗ, Giuđa hoạch định chương trình của bản thân mà không màng quan tâm thánh ý Thiên Chúa. Nơi đây, chúng ta học được bài học về sự quan phòng của Thiên Chúa và tự do của con người. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu không hề tán dương việc Giuđa phản bội, bán Người cho kẻ dữ bởi vì Người nói: “Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người” (Lc 22, 22). Thánh Phaolô giải thích tương quan giữa tội lỗi con người và ân sủng của Thiên Chúa nơi biến cố Đức Giêsu như sau: “Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 21). Vì Ađam và Evà, tội lỗi xâm nhập trần gian, tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người và tình yêu đó được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại. Người đã hiệp thông với con người trong muôn vàn hình thức đau khổ mà cao điểm là sự chết. Đồng thời, Người đã phục sinh để trao ban sự sống cho mọi người. Như vậy, việc Đức Giêsu bị nộp trong tay kẻ dữ và chịu chết trên thập giá cũng không nằm ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Giêsu chịu chết không chỉ cho một người nào đó mà cho mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Hơn nữa, nhờ liên đới với con người, muôn vật muôn loài cũng được biến đổi khi Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Đức Giêsu (Rm 8,22-25).

Sự vâng phục của Đức Giêsu đã được báo trước trong Cựu Ước và trở nên hiện thực trong Tân Ước. Điều này được diễn tả trong sách ngôn sứ Isaia (bài ca người Tôi Trung thứ ba): “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50, 6) hay (bài ca người Tôi Trung thứ tư): “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53, 10). Những câu này giúp chúng ta thấu hiểu hơn về sứ mệnh của Đức Giêsu cũng như hiệu quả của thập giá sinh ơn cứu độ mà Người mang lại: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53, 11). Hành trình trần thế của Đức Giêsu cho chúng ta nhận thức rằng trong khi Người không dành nhiều thời gian để giải thích nguyên nhân của sự dữ, Người lại mang lấy hậu quả sự dữ của mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa mà đưa lên cây thập giá (Ga 12, 32; 1 Pr 2, 24). Nhờ Đức Giêsu, chúng ta mới có thể cảm nghiệm được ‘chiều kích lớn lao’ của sự dữ, lớn đến nỗi để tiêu diệt sự dữ, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, chịu nhiều đau khổ và chịu chết trên cây thập giá. Như vậy, chúng ta không thể đưa ra câu trả lời ngắn gọn, khúc chiết về sự dữ nhưng chúng ta có thể nhìn nhận hậu quả lớn lao mà sự dữ gây ra cho gia đình nhân loại. Từ sự dữ mà con người đem đến cho Đức Giêsu, sự lành nảy sinh thật lớn lao, lớn lao hơn tất cả những gì mà con người có thể tưởng tượng trong dòng lịch sử. Đóng đinh Con Thiên Chúa là sự dữ rất lớn nhưng phúc lộc phát sinh từ thập giá Đức Giêsu còn lớn hơn, lớn đến nỗi mà tội lỗi của con người được tha thứ và con người được trở thành con cái Thiên Chúa trong hành trình trần thế và trong Quê Hương vĩnh cửu.

Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu giữa lòng trần thế, sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người và muôn vật muôn loài không còn trừu tượng nữa nhưng được cụ thể hóa nhờ lời nói và việc làm của Người. Bởi vì, Người từ Thiên Chúa mà đến và thực thi những công việc của Thiên Chúa. Sống giữa thế gian, Đức Giêsu giúp mọi người nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa, đọc những dấu chỉ đó và hành động theo những dấu chỉ đó cách trung tín nhất. Phương cách Thiên Chúa quan phòng được Đức Giêsu giảng dạy và thực thi cách trọn vẹn. Sự quan phòng của Thiên Chúa được chuẩn bị trong Cựu Ước và trở nên hoàn hảo trong Biến Cố Đức Giêsu, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Là Thiên Chúa nhưng Đức Giêsu lại trút bỏ tất cả, đặc biệt, Người phải mang trong mình bao thương tích, đau khổ. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,8-9). Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su trở thành của lễ tạ ơn hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa nhân danh mọi người trong gia đình nhân loại (Dt 7,26-28).

(còn tiếp)

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Nguồn: hdgmvietnam.com