Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 735 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em (1)Thông qua và mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo nghị quyết 44/25 ngày 20-11-1989 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Có hiệu lực từ ngày 2-9-1990 theo Điều 49 của Công ước. Việt Nam phê chuẩn ngày 20-2-1990.


Lời mở đầu

            

Các quốc gia thành viên của công ước này,     

  

Xét rằng, theo các nguyên tắc đã công bố trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, công nhận phẩm cách vốn có cũng như các quyền bình đẳng không thể tước đoạt được của tất cả các thành viên trong gia đình của loài người là nền tảng của tự do , công lý và hoà bình trên Thế giới,

            

Ghi nhớ rằng, các dân tộc trên thành viên của Liên Hợp Quốc đã từng khẳng định lại trong hiến chương niềm tin của mình vào quyền con người cơ bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và chất lượng cuộc sống cao hơn trong sự tự do rộng lớn hơn,            


Công nhận rằng, trong Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người và các công ước quốc tế về quyền con người, Liên Hợp Quốc đã công bố và thoả thuận rằng mọi người đều có quyền và tự do nêu ra trong các văn kiện đó mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác,         

    

Nhắc lại rằng, trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Liên Hợp Quốc đã công bố rằng trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt,


Tin tưởng rằng, gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm đương được đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng,         

    

Công nhận rằng, để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trên môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông.   

          

Xét rằng, trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi dưỡng theo tinh thần các lý tưởng đã nêu ra trong hiến chương Liên Hợp Quốc, đặc biệt về tinh thần hoà bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết,


Ghi nhớ rằng, nhu cầu chăm sóc đặc biệt trẻ em đã được khẳng định trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về Quyền trẻ em năm 1924, trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em do Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20-11-1959 và đã được thừa nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về các quyền Dân sự và Chính trị (đặc biệt trong các các điều 23 và 24), trong Công ước Quốc tế về quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá có liên quan khác của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức quốc tế liên quan đến phúc lợi của trẻ em,


Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em, “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”,


Nhắc lại, các điều khoản của Tuyên bố về các Nguyên tắc xã hội và Pháp lý liên quan đến Bảo vệ và Phúc lợi của trẻ em, đặc biệt đối với việc thu xếp nuôi con nuôi ở trong và ngoài nước. Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và Tuyên ngôn về Bảo vệ Phụ nữ và Trẻ em trong trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang, Công nhận rằng, ở tất cả các nước trên Thế giới có những trẻ em sống trong các điều kiện đặc biệt khó khăn và những trẻ em như vậy cần được quan tâm đặc biệt, Cân nhắc thích đáng tầm quan trọng của các truyền thống và giá trị văn hoá của mỗi dân tộc nhằm bảo vệ và phát triển hài hoà trẻ em, Công nhận tầm quan trọng của hợp tác quốc tế để cải thiện điều kiện sống của trẻ em ở mọi nước, đặc biệt ở các nước đang phát triển.


Đã thoả thuận như sau:

 

PHẦN I 


Điều 1

Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn.


Điều 2

1. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm các quyền được nêu ra trong Công ước này đối với mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ mà không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào, bất kể trẻ em, cha mẹ hay người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến gì khác, nguồn gốc quốc gia, dân tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những mối tương quan khác.


2. Các quốc gia thành viên phải thi hành tất cả các biện pháp thích hợp để đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ tránh khỏi tất cả các hình thức phân biệt đối xử hoặc trừng phạt trên cơ sở địa vị, hoạt động, những ý kiến phát biểu hoặc tín ngưỡng của cha mẹ, người giám hộ pháp lý hoặc những thành viên gia đình khác của trẻ em.


Điều 3

1. Trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù do hành động liên quan đến trẻ em, dù do các cơ quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, toà án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu.


2. Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ và chăm sóc như vậy cần thiết cho hạnh phúc của trẻ em, có tính đến những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, người giám hộ pháp lý hoặc những cá nhân khác chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với trẻ em và nhằm mục đích đó, sẽ thực thi tất cả các biện pháp thích hợp về lập pháp và hành chính.


3. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng những tổ chức, cơ quan và cơ sở chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc bảo vệ trẻ em sẽ theo đúng những tiêu chuẩn do các nhà chức trách có thẩm quyền quyết định, đặc biệt trong các lĩnh vực an toàn, sức khoẻ, về số lượng và sự phù hợp của đội ngũ nhân viên các cơ quan đó cũng như về sự giám sát thành thạo.


Điều 4

Các quốc gia thành viên phải thi hành tất cả những biện pháp, hành chính thích hợp và các biện pháp khác để thực hiện những quyền được thừa nhận trong Công ước này. Về những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp như vậy ở mức tối đa các nguồn lực sẵn có của mình và khi cần thiết trong phạm vi khuôn khổ hợp tác hợp tác quốc tế.


Điều 5

Các quốc gia thành viên phải tôn trọng những trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, hoặc ở những nơi có thể được của các thành viên gia đình mở rộng hoặc của cộng đồng theo phong tục địa phương quy định, của những người giám hộ pháp lý hay những người khác chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với trẻ em, trong việc chỉ bảo và hướng dẫn thích hợp cho trẻ em theo cách thức phù hợp với khả năng của trẻ em thực hiện những quyền được thừa nhận trong công ước này.


Điều 6

1. Các quốc gia thành viên công nhận rằng mọi trẻ em đều có quyền cố hữu được sống.


2. Các quốc gia thành viên bảo đảm đến mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em.


Điều 7

1. Trẻ em phải được đăng kí ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền có họ tên, quyền có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc sau khi ra đời.


2. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo việc thực hiện những quyền này phù hợp với luật pháp quốc gia, với những nghĩa vụ của họ theo những văn kiện quốc tế có liên quan trong lĩnh vực này, đặc biệt trong trường hợp là nếu không làm như thế thì trẻ em sẽ không có quốc tịch.


Điều 8

1. Các quốc gia thành viên cam kết tôn trọng quyền của trẻ em được giữ gìn bản sắc của mình, kể cả quốc tịch, họ tên và các quan hệ gia đình được pháp luật thừa nhận mà không có sự can thiệp phi pháp.


2. Nơi nào có trẻ em bị tước đoạt một cách phi pháp một vài hoặc tất cả những yếu tố bản sắc của các em, thì các quốc gia thành viên phải giúp đỡ và bảo vệ thích hợp, nhằm mục đích nhanh chóng khôi phục lại bản sắc cho các em đó.


Điều 9

1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ trái với ý muốn của họ, trừ trường hợp những nhà chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của pháp luật quyết định là theo luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định như thế có thể là cần thiết trong trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay sao nhãng, hoặc khi cha mẹ sống cách ly và cần phải có một quyết định về nơi cư trú của trẻ em.


2. Trong bất kỳ quá trình tố tụng theo như đoạn 1 của điều này, tất cả các bên liên quan phải được cơ hội tham gia quá trình tố tụng và bày tỏ quan điểm của mình.


3. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền của trẻ em bị sống cách ly với cha mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, để duy trì những quan hệ riêng tư và được tiếp xúc trực tiếp với cả cha và mẹ một cách đều đặn, trừ khi việc này trái với lợi ích tốt nhất của trẻ em.


4. Nơi nào mà sự cách ly như vậy là kết quả của bất kỳ hành động nào của một quốc gia thành viên như giam giữ, bỏ tù, đi lưu vong, đi đày hay chết (gồm cả cái chết xảy ra do bất kỳ nguyên nhân nào trong khi người đó đang ở trong cơ sở giam giữ của Nhà nước), của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ của trẻ em, hay của trẻ em thì quốc gia thành viên đó phải cung cấp theo yêu cầu cho cha mẹ, cho trẻ em hoặc nếu thích hợp, cho một thành viên khác của gia đình những thông tin thiết yếu về địa chỉ của một hay nhiều thành viên vắng mặt của gia đình, trừ trường hợp việc cung cấp thông tin như thế sẽ phương hại đến phúc lợi của trẻ em. Các quốc gia thành viên còn phải đảm bảo rằng việc đề ra yêu cầu như vậy sẽ không tự nó gây nên những hậu quả có hại cho người (hoặc những người) có liên quan.


Điều 10

1. Phù hợp với nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo điều 9, đoạn 1, những đơn của trẻ em hoặc của cha mẹ các em đề nghị được nhập cảnh hay xuất cảnh một quốc gia thành viên vì mục đích đoàn tụ gia đình, phải được các quốc gia thành viên xử lý một cách tích cực, nhân đạo và nhanh chóng. Hơn nữa, các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng việc đưa một yêu cầu như thế sẽ không gây ra những hậu quả có hại cho những người đứng đơn yêu cầu và cho các thành viên gia đình họ.


2. Trẻ em có cha mẹ mà mỗi người cư trú ở các quốc gia khác nhau phải có quyền duy trì trên cơ sở đều đặn những quan hệ cá nhân và tiếp xúc trực tiếp với cả cha và mẹ trừ hoàn cảnh đặc biệt. Nhằm mục đích đó và phù hợp với nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo điều 9, đoạn 1, các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền của trẻ em , của cha mẹ được rời đến bất cứ nơi nào, kể cả chính nước của họ và quyền nhập cảnh vào nước họ. Quyền được rời đến bất kỳ nước nào sẽ chỉ lệ thuộc vào những điều hạn chế được ghi trong luật pháp và cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế, đạo đức hoặc các quyền và sự tự do của những người khác và phù hợp với các quyền khác được thừa nhận trong Công ước này.


Điều 11

1. Các quốc gia thành viên phải tiến hành những biện pháp chống việc mang trẻ em ra nước ngoài bất hợp pháp và không đưa trở về.


2. Để đạt được mục đích này, các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc kí kết những hiệp định song phương hoặc đa phương hay tham gia các hiệp định hiện có.


Điều 12

1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của trẻ em.


2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, hoặc trực tiếp hay thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của luật pháp quốc gia.


Điều 13

1. Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến; quyền này phải bao gồm sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tất cả các loại thông tin và tư tưởng không kể biên giới, hoặc qua truyền miệng, bản viết tay hay bản in, dưới hình thức nghệ thuật hoặc bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác mà trẻ em lựa chọn.


2. Việc thực hiện quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, nhưng những hạn chế này chỉ có thể là các điều được luật pháp quy định và là cần thiết.

(a) Để tôn trọng các quyền và thanh danh của người khác.

(b) Để bảo vệ an ninh quốc gia hay trật tự công cộng hoặc y tế và đạo đức.


(còn tiếp)

Nguồn: baovequyentreem.vn