Thánh Phanxicô gặp gỡ người Islam - Một khởi đầu ý nghĩa cho ĐTLT (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 772 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS
Thánh Phanxicô gặp gỡ người Islam - Một khởi đầu ý nghĩa cho ĐTLT (1)Dẫn Nhập

Trong lịch sử Giáo hội, Luật Dòng Anh em hèn mọn là bản Luật Dòng tu đầu tiên chứa đựng những quy định về việc các tu sĩ đi rao gỉảng Tin Mừng cho lương dân. Điều đáng chú ý là Thánh Phanxicô (1181-1226) nhắc tới “người Islam và những dân ngoại khác” (x. Lksd 16,1-21; L 12,1-2) [1]. Như vậy, Ngài quan tâm ưu tiên tới người Islam. Nêu lên sự kiện này, không có nghĩa muốn nói rằng Dòng Anh Em Hèn Mọn là Hội Dòng đầu tiên gửi tu sĩ đi truyền giáo cho lương dân. Các Hội Dòng khác, như Dòng Thuyết giáo của Thánh Đaminh, đồng thời với Thánh Phanxicô, đã đóng góp rất nhiều trong việc truyền bá đức tin cho dân ngọai. Và trước thời hai vị thánh tổ phụ của hai Hội Dòng “hành khất” lớn nhất của Giáo Hội thời Trung Cổ, thì chính các đan sĩ Dòng Biển Đức (từ thế kỷ VI) đã là những nhà thừa sai, truyền giáo cho các dân ngọai của châu Âu, nhất là Bắc Âu. Vì thế, vào năm 1964, ĐGH Phaolô VI tôn phong Thánh Biển Đức là “Quan Thầy” của Châu Âu, vì thánh nhân đã mang đến cho châu lục này sự tiến bộ Kitô giáo bằng “Thập giá, quyển sách và lưỡi cày” [2], với châm ngôn ”Ora et Labora”, “Cầu nguyện và Lao động”, trong đó cầu nguyện và đời sống tu trì được biểu trưng bởi “Thập Giá”, còn “quyển sách và lưỡi cày” là biểu tượng của lao động trí óc và lao động chân tay. Nét mới của PHANXICÔ không phải là truyền giáo cho lương dân, nhưng là tìm cách đem Chúa Kitô và Phúc Âm đến với người Islam, là nhóm người đang bị thế giới phương Tây nhìn bằng một cái nhìn thù nghịch. Để thấy rõ hơn nét mới ấy, chúng ta nên nhìn PHANXICÔ trong bối cảnh tôn giáo, chính trị và xã hội của thời đại ngài.


Phần I. Làn sóng Islam

1. Vào năm 313 Constantinô Đại đế ký chỉ dụ Milanô chấm dứt ba thế kỷ Kitô giáo bị đế chế La mã bách hại, và công nhận Kitô giáo là quốc giáo. Già một thế kỷ sau đó, khi Thánh Augustinô thành Hippôn qua đời (354- 430), Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi chung quanh bờ Địa Trung Hải, và chỉ riêng vùng Bắc Phi đã có tới 600 Giáo phận Công giáo. Thế rồi xuất hiện Mahômét (570?- 632), người sáng lập đạo Hồi vào năm 622, tạo ra một làn sóng mang tính chất tôn giáo, chính trị và quân sự, đã nhanh chóng làm thay đổi bản đồ tôn giáo của châu Phi, châu Âu và châu Á. Bằng phương tiện “thánh chiến” (jihad), làn sóng Islam bành trướng như vũ bão và sau non một thế kỷ, đã làm chủ từ Tây Bắc châu Phi đến miền Bắc Ấn Độ. Giêrusalem và Palestina bị chiếm rất sớm, vào năm 637. Bành trướng tới đâu, thì các lực lượng chinh phục thiết lập các định chế Islam tới đó, dẫn đến sự hủy diệt toàn bộ Kitô giáo tại chỗ, bằng chứng là tất cả 600 tòa Giám mục Công giáo đã biến mất khỏi Bắc Phi, quê hương của Thánh Augustinô. Châu Âu bị tấn công từ hai phía: tại Constantinople bên Đông và tại mõm Gibraltar bên Tây. Phía Đông cầm cự lâu dài (đế chế Byzance đánh thắng quân Islam năm 678 sau 5 năm bị họ vây hãm, và thắng họ một lần nữa vào năm 718), còn Gibraltar thất thủ vào năm 711 và đoàn quân Ả rập tràn vào Tây Ban Nha. Từ đó họ xâm nhập vào nước Pháp bằng những cuộc đột kích chớp nhoáng. Năm 732 đoàn quân Islam Ả rập, mà người Pháp gọi là “les Maures” (tiếng Anh là the Moors), bị đánh bại tại Poitiers (miền Trung Tây nước Pháp) bởi đoàn kỵ binh của Charles Martel. Quân Maures rút về Tây Ban Nha. Tại đây chỉ một vài tỉnh miền núi còn giữ được nền độc lập, và đó là căn cứ địa làm bàn đạp cho các Kitô hữu để dành lại từng thành phố Tây Ban Nha khỏi tay người Maures, nhưng cuộc chiến đấu dành độc lập ấy đã kéo dài 7 thế kỷ, đến năm 1492 mới giải phóng xong thành phố cuối cùng là Granađa [3].


2. Cuộc đời thánh PHANXICÔ nằm gọn trong thời đại “Thập tự chinh” (Croisades, Crusades).

2.1. Thập tự chinh là một phản ứng tự vệ của thế giới Kitô giáo, một hiện tượng lịch sử kéo dài 195 năm (từ 1096 đến 1291), ngót hai thế kỷ. Phía các Kitô hữu phương Tây luôn tạo thành một khối liên minh giữa hàng quý tộc lãnh đạo của những nước lớn như Pháp, Anh, Đức, Hungary và “Quốc gia của Đức Giáo hoàng” (nằm ở miền trung Ý), mà thường là Pháp đóng vai chủ chốt, nhưng luôn luôn do sự điều động của các Đức Giáo hoàng. Ý tưởng liên minh đã có từ hồi năm 1086, khi vua Alphonse VI của vương quốc Castilla ở bán đảo Tây ban Nha kêu gọi các nước Kitô giáo phương Tây tiếp tay với ông để phản công lại đòan kỵ binh Almoravides tinh nhuệ đến từ Maghreb miền Tây Bắc châu Phi tăng cường cho lực luợng quân Maures. Các nước đã hưởng ứng, đã liên minh với nhau, nhưng không thắng nổi quân đội Islam cũng liên minh với nhau từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Như vậy, đối với lương tâm tập thể của thế giới Kitô giáo thời Trung Cổ, Thập tự chinh là cuộc chiến tranh giải phóng. Cuộc liên minh năm 1086 nhằm giải phóng nước Tây Ban Nha công giáo khỏi ách đô hộ của quân xâm lược Islam Ả rập có thể coi như là một cuộc tập dượt tiền Thập tự chinh. Tiếp đến, vào năm 1095, hoàng đế Byzance gửi lời cầu cứu tới Đức Giáo hoàng Urbanô II, thế là bốn đạo quân Thập tự chinh đầu tiên của thế giới Kitô giáo phương Tây tiến sang Cận Đông, tìm cách giải tỏa áp lực của khối Islam Thổ nhĩ kỳ trên thủ đô Constantinople của đế chế Byzance Chính thống giáo, và đi giải phóng Mộ Chúa tại Giêrusalem.


2.2. Khi PHANXICÔ chào đời năm 1181 (hoặc 1182), Giáo Hội Công giáo phương Tây đã tiến hành hai cuộc Thập tự chinh lớn và sẽ thực hiện thêm ba cuộc Thập tự chinh lớn khác nữa trong đời PHANXICÔ, trên tổng số tám cuộc Thập tự chinh diễn ra trong vòng hai thế kỷ.


2.2.1. Cuộc Thập tự chinh thứ nhất vào năm 1096-1099, đã giải phóng đuợc Giêrusalem, tái chiếm Ngôi Mộ Chúa vào năm 1099 và thành lập Vương quốc Pha Lang (Royaume franc, mà người Đại Việt thế kỷ XVII phát âm thành Hoa lang), cũng gọi là Vương quốc La tinh (Royaume latin) tại Giêrusalem (1099-1291). Song song với cuộc Thập tự chinh bằng quân lực, cũng diễn ra một cuộc Thập tự chinh bình dân gồm những giáo dân đạo đức, nhiệt thành, hăng say đi chiến đấu vì muốn hưởng ơn toàn xá và cả ơn tử vì đạo nữa, nhưng đã kết thúc một cách thảm hại.


2.2.2. Cuộc Thập tự chinh thứ hai (1147-1149) do Thánh Bênađô (1090-1153) vận động vào tháng 3/1146 bằng những bài giảng hùng hồn và nảy lửa tại Vézelay (khoảng 150 km về phía Đông Nam Paris), cuối cùng gặp thất bại hoàn toàn.


2.2.3. Cuộc Thập tự chinh thứ ba (1189-1192) diễn ra khi PHANXICÔ bắt đầu có tuổi khôn (7 đến 10 tuổi), hiểu biết phần nào chuyện thời cuộc, nhất là khi lắng nghe một cách thích thú các bài ca, do những “ca sĩ hát rong” (troubadours) xướng lên để ca ngợi tinh thần dũng cảm của những hiệp sĩ Thập tự chinh, như vua nước Anh Richard Coeur-de-Lion (vua Richard Hùng Tâm Dũng Chí bất khuất như sư tử), bên cạnh những bài ca kinh điển ca ngợi thành tích của Vua Arthur và các Hiệp Sĩ Bàn Tròn. Cuộc chiến thứ ba này chỉ tái chiếm được hải cảng Saint-Jean d’Acre ở Syria, nhưng thất bại trước ngưỡng cửa Giêrusalem. Vương quốc La tinh đã mất thủ đô Giêrusalem vào tay vua Islam, Sultan Salađin năm 1187 và chỉ tồn tại èo uột bên lề đế quốc Islam đang lớn mạnh này, mặc dầu các Hội Dòng Hiệp sĩ, như “Dòng Đền Thờ” (Templiers), “Dòng Hiệp sĩ Mộ Thánh” (Chevaliers du Saint Sépulchre), Dòng Hiệp sĩ Thánh Gioan” (Chevaliers de saint Jean), “Dòng Bệnh Viện” (Hospitaliers)… đã dấn thân cách anh dũng trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù, và trong việc phục vụ khách hành hương đến từ phương Tây.


2.2.4. Đối với cuộc Thập tự chinh thứ tư (1202-1204) do ĐGH Innocentê III chủ xướng và các lãnh chúa của nước Pháp liên minh với vị Thống lĩnh Cộng hòa Venise thực hiên, chắc chắn chàng trai PHANXICÔ ở tuổi 21- 23 đã quan tâm theo dõi một cách háo hức. Cuộc Thập tự chinh này là một thảm họa khủng khiếp, không những bôi đen uy tín của vị Giáo hoàng vĩ đại, mà nhất là đã tạo ra một vết thương lớn cho Giáo Hội Chính thống Đông phương và làm cho hố ngăn cách giữa hai Giáo hội Đông Tây, vốn đã ra vạ tuyệt thông lẫn nhau vào năm 1054, nay càng tỏ ra không thể hàn gắn nổi. Đạo quân phương Tây, thay vì trực chỉ Giêrusalem để giải phóng Mồ Chúa, đã dừng lại ở Constantinople, vây hãm và tàn phá nó thê thảm, bằng chém giết, cướp bóc, hãm hiếp, hôi của và xúc phạm những thánh điện của các Kitô hữu Chính thống. Một đế chế Latinh được thành lập tại Constantinople, kéo dài đến năm 1261. Tai tiếng đầy ô nhục lan nhanh về châu Âu. ĐGH Innocentê III, một con người có đầu óc thực dụng, vẫn tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến tranh chống lại đế chế Đức ở miền Nam Ý. Ngài tuyên bố: cuộc chíến tranh này cũng là Thập tự chinh, và ngài chúc lành cho tất cả các Thập tự binh tình nguyện tòng quân dưới quyền tư lệnh của Gauthier de Brienne để làm sáng danh Thiên Chúa và mang lại chiến thắng cho Giáo hội [4]. Chàng trai PHANXICÔ lên đường đi dự chiến vào mùa xuân 1205, theo đuổi mộng công danh, vì muốn trở thành một hiệp sĩ Thập tự chinh ở nội địa. Chính sự can thiệp của Thiên Chúa qua một giấc chiêm bao và một tiếng nói trong nội tâm PHANXICÔ đã thay đổi định hướng của chàng thanh niên con nhà giàu háo danh này.


Phần II. Kinh nghiệm Thập tự chinh của PHANXICÔ

Trong những bước đầu tiên đánh dấu cuộc hóan cải của PHANXICÔ, giấc chiêm bao về một lâu đài đầy binh khí và cuộc đối thoại với tiếng nói huyền bí, mang một ý nghĩa và tấm quan trọng đặc biệt, nên cần được phân tích kỹ lưỡng.


1. Trước tiên các truyện ký đều ghi nhận rằng PHANXICÔ là một chàng thanh niên con nhà giàu, háo danh.


1.1. Khi bị cầm tù tại Pêrugia năm 1202 trong cuộc chiến tranh giữa thành phố này với Assisi, PHANXICÔ đã từng tuyên bố với các bạn tù: “Các bạn nghĩ gì về tôi hả? – sau này cả thế gian thiên hạ sẽ kính nể tôi” (x. Khuyết danh Pêrugia = kdp 4; 2 Cel 4). Sau giấc chiêm bao về lâu đài chứa đầy vũ khí, PHANXICÔ tràn ngập niềm phấn khởi, lên đường hướng về Pulia để lập thành tích và được phong hiệp sĩ. Chàng đã trả lời những người ngỡ ngàng trước niềm vui khác thường của chàng: “Tôi biết, tôi sẽ trở thành một ông hoàng lớn” (x. 3NB, 5; Kdp 5d; 2 Cel 6).


1.2. Vì vậy, tư thế con nhà giàu là một bàn đạp vững chắc cho chàng trai PHANXICÔ háo danh nhảy lên vũ đài vinh quang của giới hiệp sĩ. Điều này đã có một quá trình lịch sử: Vào năm 1198, thừa cơ lúc quân lính của đế quốc Đức rút khỏi pháo đài La Rocca, giai cấp “bình dân” (minores homines) của Assisi, trong thực tế đó là giai cấp “trung lưu” gồm giới thương gia đang vươn lên và các giới thủ công nghiệp (không bao hàm giới nông dân sống bên ngoài thành phố và những người nô lệ!), kéo lên đập phá pháo đài, biểu tượng của đế chế ngọai bang, lấy đá xây tường thành, và thành lập chế độ “Công Xã”, có Nghị Viện do giai cấp “trung lưu” được giới thương gia lãnh đạo, bầu lên. Giới “thượng lưu” (boni homines hoặc majores, có thể hiểu như là “những thiện nhân hoặc đại nhân, quân tử”, trong đó có gia đình của Clara) bị chống đối, nên lần lượt di tản sang Pêrugia, cách Assisi khoảng 15km, để tính kế phục thù và hồi hương [5]. Vì giới thượng lưu, vườn ươm của các hiệp sĩ, đã phải rời Assisi, nên không còn ai là hiệp sĩ để chu toàn các nghĩa vụ của hệ thống phong kiến (ví dụ để tòng quân tham chiến nhằm ủng hộ Đức Giáo hoàng chống lại đế chế Đức), thế nên Nghị Viện thành phố quyết định kêu gọi những quý tử của các gia đình giàu có tình nguyện nhập ngũ với triển vọng được phong hiệp sĩ, nếu gia đình có đủ tiền sắm cho con mình chiếc áo giáp, một chiến mã và khí giới kỵ binh [6]. PHANXICÔ thuộc nhóm “ứng viên hiệp sĩ hãnh tiến” này và ông bố Pietro Bernadone rất hãnh diện về cậu con trai trưởng của mình, vừa bặt thiệp trong nghề buôn bán, vừa hào hoa phong nhã trong giao tế. Ông tạo điều kiện tối ưu cho con mình thăng tiến, và qua đó thăng tiến chính gia đình ông. Vào năm 1205, hòa ước được ký kết giữa Pêrugia và Assisi, theo đó các tù binh thuộc giới trung lưu của Assisi được trả tự do (riêng PHANXICÔ đã được bố bỏ tiền ra chuộc về trước đó một năm rồi, vì cậu ấm ngã bệnh), và Nghị Viện Assisi phải chấp nhận cho các gia đình thượng lưu đã di tản được hồi hương và nhận lại tài sản của minh, còn giới trung lưu Assisi thì được quyền có tiếng nói về các vấn đề liên quan tới đời sống thành phố qua các đại biểu do họ bầu chọn [7]. Hòa ước này chỉ củng cố thêm cho kế hoạch của hai bố con PHANXICÔ.


2. Từ ước mơ làm hiệp sĩ quân sự đến ơn gọi làm hiệp sĩ tâm linh

Cho đến mùa xuân năm 1205, PHANXICÔ thực sự là một chàng thanh niên con nhà giàu, háo danh, đã đáp lại lời kêu gọi của ĐGH Innocentê III, tình nguyện tòng quân dưới quyền tư lệnh của Gauthier de Brienne, một Bá Tước người Pháp [8], với tham vọng được phong hiệp sĩ, thậm chí trở thành một “ông hoàng lớn”. PHANXICÔ hiểu rất rõ chiến dịch chàng tham gia là một cuộc Thập tự chinh nội địa, song song với cuộc Thập tự chinh hải ngọai, mà có lẽ các tin tức về kết cục đáng xấu hổ của nó chưa thấu tai PHANXICÔ và người đồng hương vào đầu năm 1205, nhưng trước sau gì rồi mọi người tại châu Âu cũng phải biết. Vậy điều gì đã xảy ra với PHANXICÔ tại Spoleto vào một đêm mùa xuân năm ấy?


2.1 Chúng tôi dựa trên 5 nguồn, nghĩa là 5 truyện ký kỳ cựu về cuộc đời Thánh PHANXICÔ xếp theo thứ tự thời gian (có ghi luôn quy chiếu chính xác cho đề tài đang bàn), đó là: Hạnh Thánh PHANXICÔ quyển thứ nhất do Celanô viết (1 Cel 5); Khuyết danh Pêrugia (Kdp 5-6); Ba Người Bạn (3NB 5- 6); Hạnh Thánh PHANXICÔ quyển thứ hai do Celanô (2 Cel 6); và Đại Truyện của Thánh Bonaventura (ĐT 1,3) [9].


2.1.1 Cả năm tư liệu nguồn vừa nêu đều kể lại cuộc chiêm bao của PHANXICÔ thấy một lâu đài đầy ắp khí giới của các hiệp sĩ, và nghe một lời hứa sẽ ban khí giới ấy cho PHANXICÔ và các hiệp sĩ (hoặc các chiến sĩ) của chàng. Riêng 1 Cel, được viết ra sớm nhất, vào năm 1228, không kể lại cuộc đối thọai với tiếng nói huyền bí tiếp theo sau giấc chiêm bao (nên phân biệt tiếng nói huyền bí: ”Ai có thể giúp anh nhiều hơn, Đấng làm chủ hay kẻ làm tôi?” với lời hứa trong giấc chiêm bao về lâu đài!), vì lúc đó Celanô suy nghĩ rằng PHANXICÔ tự cảm thấy mình không còn bị cuốn hút bởi mộng công danh này như trước nữa, nên đã tự quyết định bỏ cuộc, không đi Pulia nữa, mà trở về Assisi ngay. Tác giả J.H. Smith [10] xem ra hài lòng với cách trình bày của 1 Cel và coi việc các tài liệu được viết ra sau đó kể lại cuộc đối thọai giữa PHANXICÔ với tiếng nói huyền bí là không cần thiết. Thực ra khi Anh Tôma Celanô viết quyển hạnh thứ nhất (1 Cel) thì anh chưa có đầy đủ trong tay chứng từ của những Anh em đầu tiên đã sống sát cánh với Thánh PHANXICÔ như được ghi lại trong Kdp và 3NB, thành ra truyện ký của anh còn nhiều thiếu sót, mà anh sẽ cố gắng lấp đầy khi viết hạnh thứ hai (2 Cel) vào năm 1247. Trong 2 Cel 6, chúng ta tìm thấy hai câu chuyện về lâu đài đầy vũ khí và về cuộc đối thọai của PHANXICÔ với tiếng nói huyền bí được kể lại đầy đủ như trong Kdp 5- 6 và 3NB 5- 6. Ông Smith có những suy nghĩ riêng của ông, khi dựa vào 1 Cel 5 để lọai bỏ tiếng nói huyền bí tại Spoleto; và dựa vào 1 Cel 8 (và cả Kdp 7b- c- d nữa) để lọai bỏ tiếng nói của Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh tại San Damiano [11].


Nhưng chúng tôi theo quan điểm truyền thống, dựa trên chính quan điểm của Celanô, dùng Hạnh thứ hai (2 Cel) bổ sung cho Hạnh thứ nhất (1 Cel), và làm như thế là trân trọng tất cả các tư liệu nguồn. Và theo cả 5 tư liệu ấy, kể cả 1 Cel, thì PHANXICÔ đã trải qua một sự chuyển biến nội tâm, đi từ tham vọng rất trần tục muốn trở thành một hiệp sĩ quân sự vẻ vang, giàu có, đến quyết định, do ơn Chúa thúc đẩy, trở nên một hiệp sĩ tâm linh, thực hiện một cuộc Thập tự chinh tâm linh. Thật vậy, theo 1 Cel 5, vào lúc đó, PHANXICÔ “vẫn hòan tòan chưa hiểu trọng trách từ trời ban xuống cho mình…”, nhưng “linh kiến về vũ khí xảy ra vào ngay lúc khởi đầu sự nghiệp, quả là một điềm báo tuyệt diệu: việc trao khí giới rất thích hợp với một trang dũng sĩ (miles có thể hiểu đồng nghĩa với “hiệp sĩ”) sắp phải giao chiến với kẻ mạnh hơn và vũ trang đầy đủ (x. Lc 11,21). Như một Đavít mới, nhân danh Chúa, Thần các đạo binh (x. 1 Sm 17,45), ngài sẽ giải thoát Israel khỏi tay địch thù vẫn hằng ức hiếp”. Với những kiểu nói bóng bảy, Celanô, vào năm 1228, muốn coi PHANXICÔ như một hiệp sĩ tâm linh, một trang dũng sĩ được trao cho một trọng trách từ trời ban xuống, mặc dầu chính PHANXICÔ chưa ý thức và hiểu hết điều đó.


2.1.2 Chúng tôi rất tâm đắc với cách ông Smith diễn đạt ý nghĩa của việc PHANXICÔ thấy trong mộng vũ khí hiệp sĩ và nghe trong mộng tiếng nói của Chúa tại Spoleto bảo chàng hãy trở về Assisi, theo cách hiểu của Thánh Bonaventura, là để từ quê hương mình “thực hiện một cuộc Thập tự chinh tâm linh” [12].


- Thánh Bonaventura viết nguyên văn như sau: “Hãy trở về quê hương, vì linh kiến con đã thấy, phác thảo trước một kết cục tâm linh. Nó sẽ trở thành hiện thực không phải do nỗ lực của con người, nhưng do sự an bài của Thiên Chúa”(ĐT 1,3).


- Trước đó, Celano viết trong Hạnh thứ hai: “PHANXICÔ đổi vũ khí thể xác thành vũ khí tinh thần và được phong tước bởi trời thay vì vinh quang binh nghiệp” (2 Cel 6).


- Trước đó nữa, Khuyết danh Pêrugia viết: “PHANXICÔ có cảm tưởng như ơn Chúa đột nhiên biến đổi chàng thành một con người khác” (Kdp 6).


- Còn Ba Người Bạn thì chỉ viết đơn giản: “Hãy trở về quê hương, rồi sẽ cho con biết phải làm gì. Linh kiến con đã thấy, con phải hiểu theo nghĩa khác”— theo nghĩa tâm linh (x. 3NB6).


2.1.3 Khi về lại quê hương Assisi, cuộc Thập tự chinh đầu tiên PHANXICÔ thực hiện, là chiến đấu với chính mình, chống lại cái tôi háo danh, luôn tìm cách giật nổi hơn người; chống lại cái tôi thích tìm kiếm sự ngọt ngào của cuộc sống, và từng bước tập chịu đựng sự đắng đót, và biến cái đắng đót thể xác thành cái ngọt ngào tâm linh (x. 3NB 11a).


- Lần tập dượt đầu tiên về cuộc chiến đấu này là cuộc gặp gỡ người cùi: cảm nghiệm thứ nhất này được chính PHANXICÔ nhắc lại một cách rõ ràng trong Di Chúc (x. 1 Cel 17; 3NB 11b-c-d; 2 Cel 9; ĐT 1,5; DC 1-3), qua đó PHANXICÔ lần đầu tiên thắng được con người tự nhiên của mình vốn luôn cảm thấy đắng đót, tởm lợm khi nhìn thấy người cùi, nhưng lần này nhờ ơn Chúa tác động, chàng đã ôm hôn một người cùi và tức khắc nếm cảm được một sự ngọt ngào trong tâm hồn cũng như ngòai thể xác, nghĩa là có được một cảm nghiệm tâm-thể-lý (psychosomatique) sâu sắc và tòan diện (x. DC 1-3). Theo Thánh Bonaventura, PHANXICÔ đã tự nhủ mình: “trước hết phải chiến thắng bản thân nếu muốn trở thành một hiệp sĩ của Chúa Kitô” (miles Christi: ĐT 1,5). Lý tưởng hiệp sĩ, được thăng hoa, vẫn là động lực thúc đẩy PHANXICÔ hà