Ðạo đức y sinh từ một quan điểm Phật giáo

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2788 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

Giới thiệu


Sự phát triển của khoa học y sinh hiện đại và công nghệ sinh học đã tạo ra những tình huống phức tạp mà chúng đang gia tăng mạnh mẽ mỗi ngày. Những tình huống này đưa ra những nan đề đạo đức lớn hơn bao giờ hết. Xã hội và loài người đang đương đầu với những nan đề đạo đức sâu sắc, cần đến một lĩnh vực đạo đức hoàn toàn mới, được gọi là “đạo đức y sinh” (biomedical ethics). Trong những năm gần đây phân ngành mới này đã phát triển nhanh hơn những phân ngành khác. Ngày nay đạo đức y sinh là một đề tài tranh luận thường thấy giữa những nhà đạo đức học, cũng như ở trên các phương tiện thông tin đại chúng.


Chúng ta có thể tìm thấy một lượng tài liệu đồ sộ ở đó các tác giả đã dẫn quan điểm của Thiên Chúa giáo cho việc quyết định những vấn đề đạo đức y sinh. Vô số sách vở và các bài viết đã tạo nên những đóng góp trực tiếp và gián tiếp đáng kể đối với xã hội hiện thời. Những bình luận, ý kiến và đề nghị thường xuyên được các phương tiện truyền thông đại chúng đề xuất với những nhà thần học chuyên về đạo đức của Thiên Chúa giáo; và các phương tiện truyền thông đã nhận được những sáng kiến để đưa ra quan điểm của họ khi có cơ hội, và nỗ lực tích cực giải quyết những vấn đề đạo đức y sinh hiện thời.


Ngược lại, thật khó khăn để tìm thấy những đóng góp của Phật giáo cho việc giải quyết những vấn đề y sinh này. Có thể có những lý do chính đáng khiến các Phật tử không tham gia vào những thảo luận này.


Tuy nhiên, sự im lặng của các Phật tử về những vấn đề y sinh không có nghĩa rằng Phật giáo không đủ khả năng cung cấp những câu trả lời cho các vấn đề này. Tôi mạo muội khẳng định rằng Phật giáo có đủ khả năng trình bày một giải pháp vững chắc và phổ quát đối với đạo đức y sinh hiện nay. Như quan điểm của Thiên Chúa giáo đối với đạo đức y sinh có gốc rễ ở nơi thần học Thiên Chúa giáo, Phật giáo có quan điểm của riêng mình đối với đạo đức y sinh. Có những nguyên tắc đạo đức trong Phật giáo có thể dễ dàng được áp dụng.


Bằng việc áp dụng những giáo lý Phật giáo, những học thuyết, nguyên tắc đạo đức, nhân chủng học và triết học một cách đầy đủ, tôi sẽ nỗ lực tìm ra quan điểm Phật giáo đối với một vài vấn đề y sinh chính yếu, chẳng hạn như vấn đề phá thai, tự tử, sự tránh thai, sự thụ thai trong ống thủy tinh, bí mật của bệnh nhân/bác sĩ, và phẩm chất của đời sống.


Mục đích của bài viết này nhằm thu hút sự chú ý của những học giả Phật giáo vào những thảo luận nghiêm túc về những vấn đề y sinh hiện nay. Bài viết này nỗ lực giải quyết những vấn đề này bằng việc sử dụng một vài nguyên tắc Phật giáo.


Phá thai


Phá thai (abortion) là gì?


Phá thai được chia làm hai loại: phá thai tự phát và phá thai do kích thích. Phá thai tự phát thường được đề cập như là sẩy thai (miscarriage), điều nằm ngoài phạm vi đạo đức. Phá thai bằng kích thích được phân làm hai loại: phá thai trị liệu và phá thai không có trị liệu. Phá thai trị liệu bằng kích thích là một tiến trình y học được một bác sĩ có giấy phép hành nghề thực hiện khi có một nguy cơ đe dọa tính mạng của người mẹ, và thường được xem là một việc làm hợp pháp. Phá thai bằng kích thích không có trị liệu thì bị luật pháp cấm, nhưng về sau được hợp pháp hóa ở một vài nơi. Mặc dù phá thai bằng kích thích không trị liệu hiện được luật pháp bảo vệ (tại một số nơi), các nhà đạo đức học vẫn còn đang tranh luận vấn đề đạo đức của nó. Từ một quan điểm Phật giáo, cả phá thai trị liệu và phá thai không trị liệu đều có thể tranh luận. Tuy nhiên, chúng ta hãy thảo luận về giá trị của việc phá thai không vì mục đích trị liệu từ một quan điểm Phật giáo.


Về tiến trình phát triển của một bào thai, kinh Mahātahāsankhaya giải thích như sau: sự thụ thai chỉ xảy ra bằng một sự kết hợp thành công của ba nguyên nhân và điều kiện: (1) sự kết hợp của tinh trùng và trứng, (2) thời kỳ rụng trứng của người mẹ, và (3) sự có mặt của thức. Theo quan điểm này, một đời sống mới bắt đầu tại lúc thụ thai. Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng, mặc dù bào thai này còn nhỏ và non nớt so với một người lớn, Phật giáo cho rằng ở nơi bào thai này tất cả những thuộc tính vật lý và tâm lý là đã tiềm tàng, mặc dù chưa phát triển đầy đủ. Về mặt này, sinh linh được gọi là bào thai này là một con người khác, có đủ tất cả hiện tượng tâm-vật lý. Như vậy, theo Phật giáo, phá thai được xem như là một hành động tước đoạt mạng sống của một chúng sinh.


Tại sao Phật giáo không khuyến khích việc đoạt lấy mạng sống của một chúng sinh. Đó là bởi vì, theo Đức Phật, đối với mọi chúng sinh, thứ yêu quý nhất là mạng sống của chính mình. Tất cả chúng sanh sợ đau đớn, sợ tổn hại và khổ đau; và tìm kiếm sự an ổn và không sợ hãi. Đây là một trong những giáo lý căn bản nhất có thể áp dụng cho tất cả những vấn đề y sinh. Trong tất cả mọi chúng sinh, cho dù ở bên ngoài hay còn ở trong bụng, cho dù là con người hay không thuộc loài người, thứ yêu quý và quý giá nhất là mạng sống của chính mình. Đoạt mạng sống của một kẻ nào đó là bạn chấp nhận quan điểm rằng một vài người khác có thể đoạt mạng sống của bạn trái ngược ý muốn của bạn. Trong Phật giáo, bởi vì điều này không phải như vậy, nên việc tước mạng sống không được xem là một hành động đúng đắn. Phật giáo sử dụng thuật ngữ thiện (kusala) và bất thiện (akusala) thay vì đúng và sai.


Trong Phật giáo, hành vi “sai” được gọi là hành vi bất thiện, bởi vì nó luôn mang lại khổ đau như là kết quả của nó. Đạo đức học Phật giáo không thảo luận những đức hạnh vì mục đích đạo đức. Chúng ta không thể tìm thấy những khái niệm tội lỗi hay xấu xa thuộc bản thể học trong đạo đức học Phật giáo. Như vậy, những hành vi bất thiện không được khuyến khích vì chúng đưa đến khổ đau.


Hành vi gây hại


Trong khi khuyên Sa-di Rahula (La-hầu-la), Đức Phật dạy rõ ràng tiêu chuẩn của hành vi thiện (kusala kamma-nghiệp thiện) và hành vi bất thiện (akusala kamma-nghiệp ác) như được ghi lại trong Trung bộ kinh. Bảng tiêu chí được trao cho Rahula được phân thành hành vi bất thiện (akusala kamma) và hành vi thiện (kusala kamma) là như sau:

1. Hành vi bất thiện (akusala kamma)

a) những hành vi làm hại chính mình

b) những hành vi làm hại kẻ khác

c) những hành vi làm hại chính mình và kẻ khác


2. Hành vi thiện (kusala kamma)

a) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) chính mình

b) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) kẻ khác

c) những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) mình và kẻ khác.


Đây là những nguyên tắc đạo đức căn bản nhất của Phật giáo mà các Phật tử có thể áp dụng cho bất kỳ sự quyết định nào.


Phá thai có thể mang lại sự nguy hiểm vật lý cho người phụ nữ qua sự xuất huyết, vô sinh hay nhiễm trùng. Bên cạnh thiệt hại vật lý, phá thai nghiêm trọng hơn làm hại sức khỏe tâm lý của người phụ nữ, tạo nên khổ đau tinh thần qua việc hối hận, tự trách, dằn vặt, tức giận, thất vọng, sợ hãi, căm ghét, suy nhược và hối tiếc.


Phá thai không chỉ làm hại chính người phụ nữ đó, mà cũng có thể làm hại người khác. Ví dụ, những thiệt hại về tâm-sinh lý có thể ảnh hưởng đến gia đình của người phụ nữ đó. Xa hơn và quan trọng hơn, bào thai bị làm hại là tầm mức sau cùng.


Trong Phật giáo, điều được gọi là “con người” được trình bày bằng thuật ngữ danh-sắc (nāmarūpa), hay là một sự kết hợp tâm-vật lý, được kết hợp bởi yếu tố vật chất (rūpa) và yếu tố phi vật chất (nāma). Tất cả mọi chúng sanh được kết hợp bởi tâm và thân. Trong Phật giáo, khi tâm và thân đang hoạt động thì có mặt một chúng sanh. Mỗi khi thức hoạt động thì ái (taṇhā) có mặt, ngoại trừ một người giác ngộ. Mỗi khi tham ái có mặt thì có sợ hãi. Ở đâu có sợ hãi thì khổ đau xuất hiện. Vì vậy, bất kể là một chúng sanh nhỏ bé thế nào, chẳng hạn như một con kiến, mỗi khi chúng sanh này có thức, thì sợ hãi và khổ đau mà nó nếm trải khi bị hại là không nhỏ hơn khổ đau của những chúng sanh khác. Tương tự như vậy, trong thức của một bào thai, tham ái, sợ hãi và khổ đau cùng sanh khởi khi nó bị hại.


Từ quan điểm Phật giáo, dường như rằng, qua việc thực hiện phá thai, một người mẹ đang tạo nên một sự khổ đau và sợ chết ở trong bào thai. Sự thật, bào thai chính là kẻ nhận lãnh sự đau đớn và sợ hãi về tâm lý và vật lý lớn nhất.


Xem xét sự việc bằng việc sử dụng tiêu chí Phật giáo này, phá thai là một hành động làm hại chính người phụ nữ và những kẻ khác. Nó có thể được xếp vào loại hành vi bất thiện (akusala kamma-nghiệp ác) nhất trong ba loại nghiệp bất thiện. Điều này có thể chỉ là sự áp dụng một chiều tiêu chí hành vi thiện và bất thiện. Mỗi tình huống là khác nhau, vì vậy chúng ta cần thảo luận thêm về chủ đề này.


Luật Nghiệp quả


Một trong những lý do quan trọng và cụ thể nhất của Phật giáo đối với việc không khuyến khích phá thai xuất phát từ học thuyết Nghiệp.


Trong Phật giáo, ý nghiệp được xem xét cẩn thận hơn thân nghiệp và khẩu nghiệp. Đức Phật dạy rõ rằng, “ý chí (cetanā-tác ý) là nghiệp (kamma)”. Theo luật Nghiệp, để thực hiện hành vi sát hại hay bất kỳ hành vi bất thiện nào khác, người ta bị thúc đẩy bởi tham, sân và si.


Hành vi bất thiện có gốc rễ ở nơi một hay tất cả những trạng thái cảm xúc bất thiện ở trên. Mỗi khi người ta thực hiện hành vi này lại, người ta làm tăng cường độ của những cảm xúc tiêu cực căn bản đó. Do vậy khuynh hướng để thực hiện hành vi bất thiện trở nên mãnh liệt hơn. Đây là tiến trình tiếp thu một thói quen tiêu cực. Theo thuật ngữ Phật giáo, điều này được gọi là “huân tập ác nghiệp”, mà nó sẽ tạo nên kết quả khổ đau và bất hạnh cho người ta. Về mặt này, học thuyết Nghiệp là “học thuyết về nhân và quả, về hành động và phản ứng; nó là một luật tự nhiên, mà không có điều gì để làm với quan điểm công bằng hay thưởng công và trừng phạt”.


Phật giáo dạy rằng người ta sẽ trở thành kẻ thừa kế những gì mà họ tạo ra. Chúng ta là kẻ sáng tạo ra chính mình. Người hành động thiện hay bất thiện là người nhận lấy những kết quả của hành động. Trong trường hợp phá thai, chính người phụ nữ sẽ nhận lãnh kết quả nghiệp của mình.


Bào thai thuộc về ai?


Vấn đề phá thai đôi khi được thay bằng vấn đề quyền của người phụ nữ đối với đời tư.


Phật giáo dạy rằng quan niệm về “thân thể của tôi” là kết quả của vô minh (avijjā). Theo Phật giáo (nhân chủng học Phật giáo), một con người được kết hợp bởi sáu yếu tố: chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, sự chuyển động, khoảng không và thức. Tất cả những điều này là tương thuộc, tương đối, có điều kiện và luôn thay đổi. Chỉ một tiến trình suy nghĩ khiến chúng ta thấy rằng “Tôi” tồn tại, hay rằng “đây là thân thể của tôi.” Quan niệm về “thân này thuộc về tôi” chỉ là một khái niệm diễn đạt mà nó sanh khởi bằng điều kiện tác động tương thuộc của một giác quan vật lý và một đối tượng giác quan. Trong thực tế, không có thứ gì hiện hữu để ta có thể tuyên bố là “của tôi”.


Bởi vì ngay cả “thân thể của tôi không thuộc về tôi”, thế thì làm sao người ta có thể nói rằng “một bào thai thuộc về tôi”? Cha mẹ chỉ cung cấp cho một bào thai nền tảng vật chất. Kinh Pháp cú nói rằng sự ảo tưởng khiến người ta cho rằng thân này thuộc về chính mình, hay đứa con của ta thuộc về ta.


Nếu một phụ nữ có thể tuyên bố rằng quyền của người phụ nữ đối với việc sử dụng thân thể mình trong trường hợp phá thai, nói “bào thai thuộc về tôi, bởi vì nó nằm trong bụng tôi, do đó tôi có thể làm bất cứ những gì tôi muốn làm đối với nó,” thì cô ta cũng có thể tuyên bố quyền tước đoạt mạng sống của đứa trẻ một ngày tuổi, một năm hay hai năm tuổi, nói, “đứa trẻ này thuộc về tôi, đây là của tôi. Vì vậy tôi có quyền giết nó.” Trong thực tế, điều này không phải như vậy. Tước đoạt mạng sống bên trong bào thai, như là trái ngược với ở bên ngoài bào thai, tương tự với tình huống của một kẻ sát nhân thực hiện hoặc bên trong hay bên ngoài một ngôi nhà - không có sự khác biệt trong bản chất. Quan điểm Phật giáo cho rằng không có sự khác nhau về phẩm chất cốt yếu giữa một bào thai một ngày, một hài nhi một ngày tuổi và một cậu bé 15 tuổi.


Điều này muốn nói rằng phụ nữ không có quyền làm bất cứ những gì cô muốn đối với bào thai của chính mình.


Một phương cách Phật giáo


Phá thai ở một vài trường hợp được biện minh bởi một vài nhà đạo đức hiện đại. Họ biện luận rằng khi một người mang thai ngoài ý muốn và bào thai không được dự tính, phá thai vì “lý do hệ trọng” không nên bị kết tội. Những lý do mà họ khẳng định là: bị hãm hiếp hay loạn luân, sự tránh thai không hiệu quả, sự khiếm khuyết gien ở trong người con, hay sự khó khăn kinh tế. Họ nói rằng phá thai vì những lý do này “không nên bị kết tội”.


Cho phép kết thúc đời sống của một bào thai có mặt bởi hãm hiếp hay loạn luân, nơi bạo lực khởi đầu đời sống, là cho phép một loại bạo lực khác đối với con người khác. Như sẽ được thảo luận về sau, trong Phật giáo, phương pháp tránh thai hiệu quả được khuyến khích khi một cặp vợ chồng không muốn có con cái. Như vậy, sự không thành công trong tránh thai, hay do vì cha mẹ hay chính phương pháp tránh thai, không thể được sử dụng chống lại bào thai. Bằng ngôn ngữ đơn giản, bào thai không nên chịu đau khổ vì sự thất bại của người khác.


Từ một quan điểm Phật giáo, những vấn đề về phá thai về cơ bản là một vấn đề của một đời sống yên ổn hay một đời sống khó khăn dành cho phụ nữ. Nó là một vấn đề sống hay chết dành cho một bào thai.


Từ những thảo luận ở trước, rõ ràng phương cách Phật giáo là xem xét những giải pháp khả dĩ khác thay vì phá thai. Phương cách Phật giáo là tìm ra một lựa chọn ít thiệt hại nhất cho cả hai phía - trong trường hợp này là người mẹ và đứa trẻ. Bởi vì phá thai là vấn đề tuyệt đối không được khuyến khích, những vấn đề nên được xem xét, thảo luận và hành động theo đó là những lựa chọn khác, chẳng hạn như cho làm con nuôi, sự trợ giúp từ những thành viên trong gia đình và những tổ chức xã hội v.v...


Giải pháp từ bi của Phật giáo đối với người phụ nữ, người đang nghĩ về phá thai, là trao cho người này sự hiểu biết đúng và thông tin đầy đủ về những sự thật của phá thai, một bào thai, luật nghiệp báo, giá trị và phẩm chất của đời sống con người, và hiểu biết đầy đủ về những lựa chọn khả dĩ khác. Nó không thể nhất thiết là tiện lợi hay dễ chịu, và có thể là khó khăn cho người phụ nữ hiểu và chấp nhận. Nhưng điều này sẽ trao cho cô ta thêm những phương tiện để phân tích tình huống đúng đắn. Trong Phật giáo, món quà của sự hiểu biết đúng đắn được xem như món quà lớn nhất trong tất cả những món quà, vượt qua bất kỳ món quà vật chất nào.


Tránh thai


Trong thế giới hiện đại, tránh thai giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình hoạt động tình dục của con người. Ở đây chúng ta có thể sử dụng học thuyết Nhân quả hay học thuyết Duyên khởi của Phật giáo. Nguyên lý của học thuyết này được trình bày bằng thể thức bốn dòng ngắn: “Khi cái này có mặt, cái kia có mặt. Khi cái này sanh, cái kia sanh. Khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Khi cái này diệt, cái kia diệt.” Diễn đạt một cách đơn giản, có nghĩa rằng khi nhân và duyên cùng tồn tại, sẽ có một kết quả. Nếu các nhân và duyên không tồn tại, không có kết quả.


Từ lời dạy này, có thể để đưa ra kết luận sau: Nếu một người không muốn có một quả nào đó được quy định bởi các nguyên nhân nào đó, người ấy nên ngăn chặn các điều kiện cần thiết đừng để chúng kết hợp với nhau. Ngăn chặn những kết quả không mong muốn là một hành động thiện xảo trong Phật giáo.


Không giống như Thiên Chúa giáo, Phật giáo không dạy việc sinh sản như là mục đích cốt tủy của việc kết hôn. Trong Phật giáo, hoạt động tình dục của con người chỉ là một sự cố gắng làm thỏa mãn ham muốn nhục dục (kāma). Ham muốn nhục dục được tạo ra bởi sáu giác quan là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sự kết hợp của người nam và người nữ hay hai thân thể vật lý trong hoạt động tình dục là kết quả của sự ham muốn (tanha) này nhằm làm thỏa mãn các gi&aac