Nhân quyền (2)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 173 | Cật nhập lần cuối: 8/31/2023 9:47:15 AM | RSS

(tiếp theo)

3. Đức Piô XII (1939-1958): một cộng đồng công dân có trách nhiệm về mặt luân lý, một trật tự pháp lý cho cộng đồng quốc tế

Nhân quyền (2)Trong khi những vị tiền nhiệm của ngài đặc biệt nhấn mạnh đến các quyền kinh tế và xã hội, thì đóng góp chính của Đức Piô XII là mở rộng việc xem xét các quyền này sang lĩnh vực chính trị và bắt đầu một giáo huấn tích cực của Giáo hội về dân chủ. Đối mặt với các nhà nước toàn trị thời bấy giờ, ngài tìm cách phát triển triết lý về quyền công dân và thừa nhận giá trị của các quyền tự do hiện đại (biểu đạt, báo chí, lập hội) mà những vị tiền nhiệm của ngài vẫn coi là mơ hồ nếu không muốn nói là nguy hiểm. Đức Piô XII nhấn mạnh đến trách nhiệm của công dân trong một xã hội tôn trọng quyền tự do của họ. Do đó, ngài đặt ra những giới hạn pháp lý đối với vai trò của Nhà nước. Các cơ cấu pháp lý và hợp pháp có nền tảng luân lý mà Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ: sự thừa nhận lẫn nhau và tôn trọng phẩm giá của nhân vị. “Việc bảo vệ lãnh vực bất khả xâm phạm của các quyền của nhân vị và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành các bổn phận của nó phải là vai trò thiết yếu của tất cả các cơ quan công quyền. Đây chẳng phải là ý nghĩa đích thực của công ích mà Nhà nước được kêu gọi thúc đẩy sao…” (16).

Đức Piô XII nhấn mạnh rằng hòa bình xã hội được bảo đảm bởi một trật tự các quyền hiến pháp hoặc pháp lý. Lý tưởng tôn trọng nhân vị nằm ngay trong bản chất của tổ chức xã hội và đòi hỏi “một cộng đồng công dân có trách nhiệm về mặt luân lý” (Thông điệp phát thanh Giáng sinh 1952). Những điều kiện hữu hạn cần thiết cho việc thăng tiến nhân phẩm là nhân quyền. Các thể chế xã hội như gia đình, tài sản, hiệp hội, chính phủ là những yếu tố qua đó cộng đồng công dân có trách nhiệm luân lý được quy định (17).

Đóng góp thứ hai của Đức Piô XII cho giáo huấn của Giáo hội về nhân quyền là việc mở rộng giáo huấn này ra ngoài các thực tại nội bộ quốc gia để quan tâm đến trật tự pháp lý của cộng đồng quốc tế (18). Một trật tự quốc tế phải được xây dựng trên việc công nhận phẩm giá của tất cả mọi người trong xã hội và không thể bị áp đặt bằng vũ lực. Nhưng Đức Piô XII không đưa ra cách xử lý có hệ thống nào từ giáo huấn này.

4. Đức Gioan XXIII (1958-1963): Hiến chương Kitô giáo về nhân quyền và sự tương tùy trong xã hội

Nếu Đức Piô XII đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng, thì chính Đức Gioan XXIII là người đánh dấu bước ngoặt quyết định nhất trong việc tiếp nhận lại khái niệm nhân quyền.

Đóng góp đầu tiên của ngài là ý thức về sự tương tùy ngày càng tăng của con người, điều này đặt ra một viễn cảnh mới về đạo đức xã hội. Những thay đổi trong đời sống hiện đại (kỹ thuật, sản xuất, quan hệ kinh tế, chính trị) hướng tới điều mà Đức Giáo hoàng gọi là hiện tượng “xã hội hóa” (19). Quyền tự do của con người ngày càng được thực thi và bị hạn chế bởi các tổ chức xã hội. Nếu việc xã hội hóa này đôi khi có thể làm nản lòng cá nhân về trách nhiệm cá nhân của mình, thì nó cũng mời gọi phát triển các cơ cấu tập thể cho phép các cá nhân tự do cùng nhau kiểm soát nó tốt hơn. Từ đó, việc bảo vệ phẩm giá con người phải được nghĩ đến dưới góc độ cơ cấu và xã hội, bởi vì sự tương tùy ảnh hưởng đến cả những khía cạnh mật thiết nhất của con người (sức khỏe, giáo dục, văn hóa, đời sống gia đình, v.v.).

Chính trong thông điệp Pacem in terris (1963), được xuất bản vài tháng trước khi qua đời, một cách có hệ thống Đức Gioan XXIII đã rút ra những hậu quả của việc phân tích này và phát triển một lý thuyết về nhân quyền như một khuôn khổ cho hòa bình quốc gia và quốc tế. Đây là đóng góp quan trọng và mang tính quyết định của ngài cho học thuyết Công giáo về nhân quyền. Nhiều nhà bình luận đã gọi nó là “Hiến chương Kitô giáo về Nhân quyền”, “tuyên bố mang tính hệ thống nhất của các Giáo hoàng thời hiện đại về các vấn đề xã hội và chính trị” (20). “Nền tảng của mọi xã hội có trật tự và hiệu quả, đó là nguyên tắc mỗi con người là một nhân vị, nghĩa là một bản tính có trí thông minh và ý chí tự do. Chính vì điều này mà con người là chủ thể của các quyền và nghĩa vụ, cả hai đều phát sinh, cùng nhau và trực tiếp, từ bản tính của con người: do đó chúng có tính phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả tước bỏ” (PT 9).

Đối với Pacem in terris, các quyền bảo vệ phẩm giá con người là quyền của các nhân vị trong cộng đồng. Chúng không chỉ là quyền của cá nhân đối với cộng đồng, cũng không phải là quyền của cộng đồng đối với cá nhân (x. PT 11-27). Hơn nữa, mỗi quyền tương ứng với một nghĩa vụ, hoặc của cá nhân đối với người khác và tập thể, hoặc của người khác và cộng đồng đối với cá nhân (x. PT 28-38). Về vấn đề này, Đức Giáo hoàng đặt Giáo hội vào trung tâm của các cuộc tranh luận mà, từ những năm 1940, đã phản đối các quyền miễn trừ của trường phái tự do và các quyền được có của truyền thống xã hội chủ nghĩa, mà Tuyên ngôn năm 1948 đã đặt cạnh nhau mà không thể trình bày rõ ràng chúng một cách vững chắc. Thông điệp đặt nền tảng và mục tiêu của tất cả các quyền này vào phẩm giá của nhân vị. Phạm vi của các quyền này, được hiểu là những đòi hỏi luân lý hợp pháp, được xác định bởi những nhu cầu cụ thể, vật chất và tinh thần, mà mỗi người cần có để bảo đảm nhân phẩm của mình. Các điều kiện kinh tế và xã hội rất cần thiết cho việc thực hiện nhân quyền, và đồng thời việc thực thi trách nhiệm cá nhân và quyền lập hội là trọng tâm để làm chủ bộ máy xã hội và đưa nó phục vụ con người (21). Hơn nữa, Đức Giáo hoàng lấy lại ngôn ngữ của Tuyên ngôn năm 1948 và khuyến khích mạnh mẽ công việc của Tổ chức Liên hiệp quốc trong đó ngài nhìn thấy sự khởi đầu của một cơ quan có thẩm quyền trên toàn thế giới, có khả năng tránh chiến tranh và phân xử xung đột giữa các quốc gia bằng pháp luật (xem PT 136-145 ).

Trong khi vào thế kỷ 19, các Đức Giáo hoàng đã đơn giản bác bỏ các quyền tự do hiện đại gắn liền với các cuộc cách mạng tự do, thì bối cảnh lịch sử mới yên bình hơn của các mối quan hệ giữa Giáo hội và các Nhà nước, đã giúp nắm bắt tốt hơn các chân lý có trong truyền thống về quyền và mở ra một cuộc đối thoại hiệu quả hơn. Pacem in terris, không đưa ra lời kêu gọi đối thoại rõ ràng, đã vượt qua các rào cản ý thức hệ và xây dựng một cầu nối giữa hai truyền thống (22). Công việc của Công đồng sẽ là đào sâu thêm tính năng động lịch sử của nó. Công đồng cũng sẽ có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền tự do tôn giáo và chính trị mà Giáo hội vẫn chưa chính thức tán thành.

5. Vatican II: một tầm nhìn thần học về phẩm giá con người trong lịch sử

Vào ngày áp chót của Công đồng, ngày 07 tháng 12 năm 1965, hai văn kiện quan trọng đã được ban hành: Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong Thế giới hôm nay (Gaudium et Spes) và Tuyên ngôn về quyền tự do tôn giáo (Dignitatis humanae). Trong Giáo hội, những năm 1940 đến 1965 là những năm tranh luận gay gắt về nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ (23). Các bản văn công đồng mở ra một chương mới về việc giảng dạy về nhân quyền bằng cách hướng nó theo một chiều hướng thần học rõ ràng hơn. Đức Gioan Phaolô II sẽ theo đuổi đường hướng này và củng cố nó, biến nhân quyền thành trung tâm giáo huấn xã hội của Giáo hội và nhấn mạnh vào nguồn gốc thần học của nó.

Gaudium et Spes (GS) kiên quyết đặt sứ vụ xã hội của Giáo hội cũng như việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong khuôn khổ sứ mạng tôn giáo của Giáo hội. Pacem in terris đặt ra một khuôn khổ luân lý và chính trị để bảo vệ các quyền nhưng không đặt nó liên hệ trực tiếp với đời sống nội bộ của Giáo hội. GS đưa ra những lý lẽ nhằm hợp pháp hóa sự dấn thân của người Công giáo trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền. Tiếp đến, nhân học thần học đặt nền tảng cho phẩm giá con người và nhân quyền, cũng như vận mệnh cánh chung của con người trong Chúa Kitô, đưa ra những lập luận khác với những lý luận chủ yếu là triết học của Đức Piô XII và Đức Gioan XXIII. Sự dấn thân của Giáo hội trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền không chỉ là một nhiệm vụ luân lý và chính trị, mà còn là sự đóng góp vào việc chuẩn bị Nước Trời, cho sự xuất hiện của đất mới và trời mới (x. GS 39, 72).

Hơn nữa, đối với GS, kế hoạch của Thiên Chúa không xóa bỏ quyền tự trị của con người nhưng làm nền tảng cho nó. Từ đó, tự do cá nhân, chủ đề của mọi tranh cãi trong thế kỷ 19, được hiểu là nơi gợi hứng của Thiên Chúa, Đấng hướng nó theo hướng thiện ích của mọi người, và lương tâm là nơi thánh thiêng mà con người có thể nghe thấy chính tiếng nói của Thiên Chúa (x. GS 16-18). Nguy cơ tự do này bị lạm dụng hoặc lương tâm quen với sai lầm luôn tồn tại, vì sự hữu hạn của con người và hậu quả của tội lỗi, nhưng nguy cơ này là nguy cơ của nhân loại và phẩm giá của nó. Những mối nguy hiểm này không còn là lý lẽ để phản đối nền dân chủ và bảo vệ một trật tự xã hội có phẩm trật phù hợp với định hướng của Giáo hội. Mầu nhiệm con người trong xã hội, ngay cả trong sự chia rẽ và đấu tranh nội tâm của nó, là nơi bắt nguồn khả năng có một đời sống xã hội phù hợp với công lý và hòa bình (24).

Một trong những đặc điểm nổi bật của GS là sự nhấn mạnh vào tính lịch sử. Khi phân tích “các dấu chỉ thời đại”, Công đồng xem xét một cách tinh tế những tiến bộ và nguy hiểm của các xã hội đương đại. “Số phận của cộng đồng nhân loại trở thành một, và nó không còn bị chia cắt thành nhiều câu chuyện riêng biệt nữa. Tóm lại, loài người chuyển từ một khái niệm tĩnh về trật tự vạn vật sang một quan niệm năng động và tiến hóa hơn: từ đó nảy sinh, rất lớn, một cách đặt vấn đề mới vốn gợi lên những phân tích và những tổng hợp mới” (GS 5). Khái niệm “năng động” và “thay đổi” xã hội được nhắc đến nhiều lần. Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, những tiến bộ trong nhận thức về giá trị con người là những dấu hiệu của điều này, nhưng cũng là sự chia rẽ về ý thức hệ, sự lo lắng liên quan đến các vấn đề của thời đại (ví dụ như nạn đói, mối đe dọa hạt nhân), sự bấp bênh về mặt luân lý. Làm thế nào để dung hòa điều này với một tầm nhìn thống nhất và liên tục về phẩm giá con người?

Công đồng coi những căng thẳng và biến động này là kết quả của một cuộc xung đột cơ bản hơn nằm ở trung tâm của cuộc sống con người. “Đối diện với cuộc tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người nêu lên những câu hỏi căn bản nhất hoặc nhận thức chúng cách sâu sắc mới mẻ. Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng vẫn tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Những chiến thắng đạt được với một giá đắt như thế có ích gì không? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?” (GS 10). Công đồng làm nổi bật sự căng thẳng giữa sự khao khát của con người về một giá trị xứng đáng được dấn thân tuyệt đối và những giá trị hạn chế và hay thay đổi về mặt lịch sử của cuộc sống con người. Vẫn có rủi ro hoặc là sự tuyệt đối hóa một số giá trị con người bị giới hạn về mặt lịch sử, hoặc là thoát khỏi thực tế lịch sử để đi trốn vào một sự siêu việt phi hiện thực. Để xem xét nhân quyền, sự căng thẳng này có nghĩa là sự hiểu biết và thực thi nhân quyền của chúng ta luôn bị điều kiện hóa về mặt lịch sử bởi các cấu trúc xã hội và nền văn hóa, đồng thời mục tiêu của một cấu trúc nhân học cơ bản mà Kitô giáo đưa ra cách giải thích vẫn hiện diện. Những giới hạn xã hội và lịch sử của sự tồn tại của con người không phải là kẻ thù của phẩm giá con người mà là bối cảnh cần thiết để hiện thực hóa phẩm giá đó. Các hình thức luôn mang tính lịch sử của việc xã hội hóa phải nhằm phục vụ cho quá trình thành nhân. Nghĩa vụ luân lý bảo vệ nhân quyền không được xác định bởi các cơ cấu thể chế bất biến mà bởi sự trung gian của các điều kiện xã hội luôn thay đổi.

Về phần mình, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (DH) của Công đồng mang lại một sự tiến triển thực sự trong Giáo hội và giải quyết cuộc xung đột tiềm ẩn ngay từ đầu giữa truyền thống tự do và Giáo hội về vấn đề tự do tôn giáo. “Công đồng tuyên bố con người có quyền tự do tôn giáo. Sự tự do này được hiểu là tình trạng con người không bị xâm phạm bởi một cưỡng bức nào từ các cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền bính nhân loại nào khác, để trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù hành động đó là riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng. Hơn nữa, Công đồng còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên chính phẩm giá con người, theo như Lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết (Cf. PT 14 ; Pie XII, Radio-message de Noël 1942). Quyền tự do tôn giáo của con người trong trật tự pháp lý của xã hội phải được thừa nhận với theo cách nó cấu thành một quyền dân sự.” (25)

Đối với DH, nhân quyền vừa là quyền tiêu cực (quyền miễn trừ) vừa là quyền tích cực (cho phép và làm cho có khả năng). Chức năng của các chính phủ là can thiệp để đảm bảo rằng các quyền và nghĩa vụ của công dân được tôn trọng trong một trật tự xã hội hài hòa và được điều chỉnh theo cách đảm bảo hòa bình công cộng. Nhà nước không thay thế trách nhiệm của con người nhưng phải điều chỉnh sự tương tác của họ. Đời sống xã hội là một trật tự của các quyền tự do.

iv. Tiếp tục hành trình lịch sử: Nỗ lực giải thích

Làm sao giải thích được sự tiến triển này trong tư tưởng xã hội của Giáo hội về vấn đề nhân quyền? Có thể lần lượt khám phá một số trục: trục về nội dung, trục về tầm nhìn xã hội và nhân vị, trục về các nền tảng.

1. Nội dung của nhân quyền

Học thuyết xã hội của Giáo hội về vấn đề nhân quyền luôn tập trung vào nền tảng tôn trọng phẩm giá của nhân vị. Ban đầu, mối quan tâm này đã biện minh cho sự phản đối các chế độ tự do và dân chủ cũng như phản đối những tiến bộ có hại của công nghiệp hóa. Sự siêu việt của con người biện minh cho cả việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo của nó trước ảnh hưởng của Nhà nước lẫn việc bảo vệ các điều kiện sống tử tế trước việc những người chiếm hữu tiền bạc biến con người thành công cụ. Trái ngược với phong trào của truyền thống nhân quyền, Giáo hội lần đầu tiên quan tâm đến các quyền kinh tế và xã hội với Đức Lêô XIII và Đức Piô XI và chỉ bắt đầu chấp nhận các quyền dân sự và chính trị muộn hơn, với Đức Piô XII rồi đến Đức Gioan XXIII. Nghịch lý thay, Giáo hội phản đối quyền tự do khi nó thống trị, lại thấy mình bị đặt vào phe của những người bảo vệ nó khi thấy mình ở vào thế yếu.

Bối cảnh của các cuộc chiến tranh thế giới và sự trỗi dậy của các chủ nghĩa toàn trị cánh tả và cánh hữu đã khiến Đức Piô XI và Đức Piô XII dần dần nhận ra sự hợp thức của các chế độ hiến pháp và sự cần thiết của các khuôn khổ pháp lý để bảo đảm việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người và tôn trọng các quyền tự do. Đồng thời, nhận thức về các khuôn khổ kinh tế, xã hội và văn hóa đã phát triển. Đối với Đức Piô XII cũng như Đức Gioan XXIII, sự tương tùy của con người và quá trình xã hội hóa ngày càng tăng khiến việc tôn trọng nhân quyền trở thành một trách nhiệm xã hội chứ không chỉ là trách nhiệm cá nhân. Với Đức Gioan XXIII và Công đồng, tất cả các quyền tự do hiện đại đều được thừa nhận và công nhận cùng lúc chúng được liên kết với các quyền kinh tế và xã hội một cách độc đáo so với các trào lưu tự do và xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nhân quyền luôn được nghĩ đến trong mối tương liên với nghĩa vụ của mỗi người đối với người khác và đối với cộng đồng, trong việc tìm kiếm công ích. Cuối cùng, việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền dựa trên tầm nhìn về xã hội và con người vốn đã được phong phú hóa đáng kể.

2. Một tầm nhìn mới về con người và xã hội

Giữa quan điểm đạo đức tân kinh viện về trật tự tự nhiên, quan điểm truyền thống trong triết lý xã hội của Giáo hội, và quan điểm đạo đức về nhân quyền, có những khác biệt đáng kể. Đạo đức học của luật tự nhiên bám chặt vào quan niệm xã hội triệt để về con người. Con người có bản chất xã hội: ngay từ khi sinh ra, con người đã tham gia vào cơ cấu của các mối quan hệ xã hội, nơi cung cấp cho nó sự hỗ trợ, bảo vệ và dạy cho nó các nghĩa vụ của mình. Bối cảnh xã hội là cần thiết cho sự phát triển đầy đủ của nó thông qua nhiều mạng lưới (gia đình, quốc gia, cộng đồng nhân loại, v.v.). Về phần mình, nhân học triết học về đạo đức nhân quyền dựa trên quan niệm về cá nhân tự trị mà các mối quan hệ và nghĩa vụ xã hội của họ bắt nguồn từ các ràng buộc khế ước được tự do lựa chọn. Từ quan niệm tương phản này về nhân vị, xuất hiện hai tầm nhìn về xã hội. Bản chất xã hội của con người được thể hiện trong một mô hình xã hội hữu cơ, trong khi mô hình xã hội theo khế ước tương ứng với sự hiểu biết tự trị về bản tính con người. Từ đó, một sự khác biệt thứ ba về vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong xã hội. Một mặt, Nhà nước có trách nhiệm to lớn cả trong lĩnh vực kinh tế – xã hội và lĩnh vực văn hóa. Mặt khác, mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công dân dẫn đến một quan niệm hạn chế về vai trò của Nhà nước.

Đối với một số nhà bình luận, việc xích lại gần nhau thực sự giữa hai quan điểm đạo đức là khó có thể xảy ra. Họ cho rằng các văn kiện huấn quyền gần đây tốt nhất đặt hai cách tiếp cận này kề nhau mà không bao giờ thống nhất chúng (26). Đối với những người khác, luật tự nhiên và các quyền tự nhiên của con người tiếp tục cùng tồn tại trong các văn kiện công đồng, ngay cả khi cuộc đối thoại của hai truyền thống đòi hỏi những sửa đổi đáng kể. Nếu khuôn khổ của luật tự nhiên vẫn còn, thì nó đã tích hợp tối đa nội dung nhân quyền (27). Đối với David Hollenbach, sự biến đổi do tư tưởng xã hội của Giáo hội mang lại là một sự tiếp nhận một cách sáng tạo truyền thống nhân quyền vốn đã mang đến một sự thay đổi trong cả hai truyền thống (28). Chính giả thuyết này mà tôi muốn đi theo.

Việc giải thích của Giáo hội về nhân quyền trên thực tế là một sự tái xây dựng có tính cộng đồng đối với truyền thống tự do và cá nhân chủ nghĩa về nhân quyền (29). Điểm mấu chốt của việc giải thích lại này là xác tín vững chắc vào học thuyết về luật tự nhiên về đặc tính xã hội của nhân vị (30). Nhân quyền không phải là quyền của cá nhân biệt lập và tự trị mà là quyền của nhân vị sống trong cộng đồng. Cá nhân và cộng đồng tồn tại trong mối quan hệ tương tùy hỗ tương. Cộng đồng phải tôn trọng và bảo vệ quyền của con người, theo cách tiêu cực bằng cách loại bỏ những trở ngại đối với sự tham gia của tất cả mọi người, theo cách tích cực bằng cách đảm bảo các điều kiện khách quan cho sự tham gia đó (31). Việc thúc đẩy tự do và phẩm giá của tất cả mọi người là một trách nhiệm xã hội mà Nhà nước phải đảm bảo (32). Con người chỉ có thể tìm thấy sự triển nở tròn đầy của mình trong các mối quan hệ xã hội có tổ chức. Đồng thời, cá nhân có nghĩa vụ đối với cộng đồng và phải làm việc với mọi người để thăng tiến công ích. Nghĩa vụ này có thể khiến nó phải hy sinh một phần lợi ích cá nhân trước mắt của mình để bảo đảm phẩm giá của tất cả mọi người. Công bằng xã hội và sự quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối nhất là cần thiết để cho phép mỗi người có cơ hội bình đẳng trong việc hoàn thiện nhân cách của mình. Một trong những mục của GS mang tựa đề: “sự cần thiết phải vượt lên trên nền đạo đức cá nhân chủ nghĩa” (GS 30). Theo nghĩa này, lý thuyết Công giáo về nhân quyền khác biệt nhiều với các lý thuyết tự do đang thống trị.

Vấn đề nhân quyền là một ví dụ đáng chú ý về cái có thể được gọi là “cuộc đối thoại giữa hai truyền thống đối địch” (33). Mỗi truyền thống trong số hai truyền thống đã tiến triển và được hưởng lợi từ sự trao đổi thường xuyên xung đột này, với cái giá là phải liên tục diễn giải lại xác tín của chính mình.

Nhân quyền đã đạt được sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội. Tư tưởng về nhân quyền cũng đã được làm phong phú nhờ việc suy tư về các nền tảng triết học và thần học của nó. Một điểm thiết yếu vào thời điểm mà sự phê phán văn hóa đối với các quyền này đặt ra câu hỏi về tính chất phổ quát của chúng. Mặt khác, truyền thống Công giáo đã dần dần (đúng là có nhiều chậm trễ) trở nên có khả năng nhận thức được tính chất có căn cứ của lập luận và từ vựng về quyền con người và việc bảo vệ pháp lý của chúng. Truyền thống này đã chuyển sang nền dân chủ trong khi vẫn giữ cái nhìn phê bình tới những trượt dốc có thể xảy ra của nó. Quả thực, tư tưởng tân kinh viện về luật tự nhiên cuối thế kỷ 19 nghĩ về đời sống xã hội và chính trị bằng thuật ngữ “trật tự xã hội”. Qua trật tự xã hội, cần phải hiểu vào thời kỳ đó niềm tin được đặt vào các cơ cấu phẩm trật truyền thống bắt nguồn từ Kitô giáo thời trung cổ và được củng cố bởi các chế độ quân chủ tuyệt đối liên minh với Giáo hội. Người ta tin rằng trật tự xã hội này phản ánh ý định bất biến của Đấng Tạo Hóa đối với nhân loại và diễn biến lịch sử của nó. Một ý định như thế được nhận ra trong luật tự nhiên được Đấng Tạo Hóa ghi khắc trong bản tính con người và có thể nhận thức được bằng lý trí được Mặc khải thần linh soi sáng. Mối quan hệ giữa đức tin và lý trí được sống ổn định, hài hòa và củng cố lẫn nhau. Sự hòa hợp như vậy quay trở lại với tầm nhìn về con người và xã hội, được coi là cơ bản thống nhất trong một tổng thể hữu cơ được chi phối bởi các quy tắc công lý do đức ái thúc đẩy.

Sự tiến triển của tư tưởng xã hội của Giáo hội đã dần dần chuyển niềm tin vào trật tự xã hội bất biến này, trật tự xã hội duy nhất có khả năng đảm bảo sự tôn trọng con người, hướng tới việc mang lại giá trị trung tâm cho con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và cho cộng đồng công dân mà nó tham gia. Chúng ta đã chuyển từ một trật tự xã hội bất biến và bảo vệ sang việc quan tâm đến con người đang sống trong các cộng đồng lịch sử và hay thay đổi. Điểm nhấn không còn là tập thể phi lịch sử nữa mà là con người xã hội đang sống trong lịch sử. Bước ngoặt này trong tư tưởng của Giáo hội đã được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt cả cách hiểu Mặc khải như một sự tương giao cá nhân giữa Thiên Chúa và con người trong các nền văn hóa và lịch sử (34). Cuộc đối thoại về nhân quyền là một ví dụ đáng chú ý về sự biến chuyển này, vốn là một sự giải thích lại truyền thống Giáo hội trong mối liên hệ với các thực tại xã hội và văn hóa của thời đại hiện nay.

3. Một nền tảng mới cho nhân quyền

Đối thoại với phong trào lịch sử về nhân quyền cũng đã buộc Giáo hội phải đào sâu suy tư về nền tảng của những quyền này. Trong khi toàn bộ thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20 tiếp tục biện minh cho nhân quyền trên cơ sở chủ yếu là triết học, thì Công đồng Vatican II đánh dấu một giai đoạn mới, dù không quên những nền tảng triết học, nhưng triển khai một lập luận thần học độc đáo.

Từ Đức Lêô XIII đến Đức Gioan XXIII, lời khẳng định thần học rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa được sử dụng để hỗ trợ niềm tin vào khả năng lý trí của con người trong việc nhận biết những cơ cấu căn bản nhất của cuộc sống con người. Sự thay đổi do Công đồng thực hiện xuất phát từ nhận thức ngày càng tăng về tính đa dạng của các ý thức hệ và các nền văn hóa. Ngoài việc nhấn mạnh đến nhân vị và tính lịch sử của nó, Công đồng còn phải được ghi nhận là đã nhận thức rõ ràng vấn đề mới về “đa nguyên” và “văn hóa”. Như Karl Rahner đã nói, Công đồng là trải nghiệm đầu tiên trong việc nhận thức về Giáo hội “như một Giáo hội thế giới”, điều mà khiến Giáo hội xem xét nghiêm túc thực tại đa nguyên xã hội, văn hóa và đạo đức của các xã hội loài người và mối đe dọa của nó đối với sự hiểu biết chung về các tiêu chuẩn luân lý cơ bản, bao gồm cả nhân quyền (35). Lý trí không còn có một nguyên nghĩa có khả năng đưa ra những câu trả lời độc nhất cho những vấn đề luân lý của thời đại. Thông điệp Rerum novarum nói về con người và lý trí của nó như những gì khiến con người có khả năng tạo nên lịch sử trong khi vẫn vâng phục những chân lý vĩnh cửu của Thiên Chúa mà không mất tự do. Hiến chế Gaudium et spes chuyển những khả năng này vào nền văn hóa vốn được hiểu như đặc tính của các nhóm người trong lịch sử.

Các văn kiện của Giáo hội đã trở nên ý thức hơn về những xung đột không thể tránh khỏi vốn diễn ra về mặt triết học, chính trị và xã hội. Những văn kiện này cũng sẵn sàng hơn khi nhìn thấy trong lý thuyết về nhân quyền và trong áp dụng thực tế của chúng nhu cầu trình bày lại thường xuyên và phát triển với sự trợ giúp của các nguồn lực của các khoa học nhân văn. Nếu Giáo hội tiếp tục muốn nói chuyện với mọi người, thì Giáo hội ý thức rằng việc suy tư và thực thi nhân quyền sẽ phụ thuộc vào cuộc đối thoại được thực hiện giữa những xung đột về triết học và văn hóa này.

Phải thừa nhận rằng cuộc đối thoại này giữa truyền thống xã hội của Giáo hội và truyền thống nhân quyền vẫn còn đặt ra nhiều câu hỏi. Chủ nghĩa đa nguyên được nói đến gây nghi ngờ về khả năng đạt được một thỏa thuận cơ bản về nội dung và nền tảng của nhân quyền ở bình diện quốc gia và quốc tế. Những phê bình về mặt văn hóa (Châu Á, Châu Phi, Hồi giáo, v.v.) chống lại một tầm nhìn quá “lấy Châu Âu làm trung tâm” của nhân quyền đã đặt ra câu hỏi về tính phổ quát của chúng. Trong bối cảnh này, Giáo hội giữ một quan điểm tế nhị, hệ tại việc nêu rõ mối quan tâm đối với nền đạo đức phổ quát và sự bén rễ sâu vào một tầm nhìn rõ ràng Kitô giáo về nhân loại. Những nỗ lực gần đây nhằm giải thích lại luật tự nhiên đang đi theo hướng xem xét luật này mang tính lịch sử và đối thoại hơn (36), nhưng vấn đề vẫn nằm trong cuộc tranh luận công khai về cách thể hiện hợp lý các xác tín bắt nguồn từ truyền thống Kitô giáo về con người trong xã hội. Hơn nữa, nếu Công đồng và các văn kiện tiếp theo đã làm nổi bật tự do tôn giáo như một quyền dân sự và chính trị cho tất cả mọi người, thì suy tư được thực hiện đã không xác lập những hậu quả của việc tính đến nhân quyền trong hoạt động nội bộ của Giáo hội. Vấn đề thần học về quyền tự do của Kitô giáo chưa được giải quyết trực tiếp. Những hậu quả nào đối với hoạt động nội bộ của Giáo hội trong việc coi trọng các quyền của nhân vị với tư cách là thành viên của cộng đồng đức tin? Vị trí của phụ nữ trong Giáo hội, các tiến trình quyết định và nói chung vai trò của giáo dân vẫn là những chủ đề mà Giáo hội cần phải đào sâu thêm. Cuối cùng, như lịch sử được trình bày ở đây cho thấy, điều quan trọng đối với việc nhập thể của cộng đồng Kitô giáo và việc truyền tải sứ điệp của nó là phải quyết tâm theo đuổi việc phân định “các dấu chỉ thời đại” và “giải thích chúng dưới ánh sáng của Tin Mừng”, để nó “có thể trả lời, một cách thích hợp cho từng thế hệ, những vấn đề muôn thuở của con người về ý nghĩa của cuộc sống hiện tại và tương lai cũng như về mối quan hệ hỗ tương của chúng” (GS 4). Vấn đề đặt ra là phương tiện mà mỗi thế hệ Kitô giáo tự cung cấp cho mình (về mặt hiện diện trong thế giới văn hóa và nghiên cứu trí thức) để suy tư của họ có thể tham gia cùng với suy tư của con người thời mình.

Alain Thomasset, S.J.
Chuyển ngữ: Tý Linh

Theo nhật báo CERAS (10.03.2014)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (29.08.2023)

________________________________

Chú thích:

(16) Pie XII, Sứ điệp phát thanh tháng Sáu năm 1941, số 15.

(17) Pie XII, Sứ điệp phát thanh Giáng Sinh năm 1952 và 1954. Xem D. Hollenbach, op. cit., p. 60

(18) Voir Bryan Hehir, “Religious activism for human rights : a case study”, in Religious Human Rights in Global Perspective. Religious perspectives, edité par John Witte et Johan Van der Vyver, Lahaie, Boston, Londres, Martinus Nijhoff, 1996, p. 97-119.

(19) Jean XXIII, thông điệp Mater et Magistra (MM) “về sự tiến triển đương đại của đời sống xã hội dưới ánh sáng của các nguyên tắc Kitô giáo” (1961), số 59.

(20) Jean XXIII, thông điệp Pacem in terris (PT) ”về Hòa bình giữa các Quốc gia, được xây dựng trên Sự thật, Công lý, Bác ái, Tự do” (1961), xem D. Hollenbach, op. cit., p. 64.

(21) Đối với Đức Gioan XXIII, việc bảo vệ nhân quyền, không hề trái ngược với việc thúc đẩy công ích, mà trái lại có mối tương quan mật thiết với nó: “Đối với tư tưởng đương đại, công ích trước hết hệ tại ở việc bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của con người; do đó, vai trò của các nhà cầm quyền trước hết hệ tại bảo đảm việc công nhận và tôn trọng các quyền, sự hòa giải lẫn nhau giữa chúng và mở rộng các quyền đó, và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công dân thực hiện nghĩa vụ của mình” (PT 60).

(22) Xem B. Hehir, op. cit., p. 104.

(23) Jacques Maritain, John Courtnay Murray, s.j, và Đức cha Pedro Pavan đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc tranh luận cho thấy Giáo hội dần dần cởi mở hơn với các vấn đề về tự do tôn giáo và dân chủ.

(24) Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hôm nay, Gaudium et Spes (GS), (1965), số 41 : “Vì, tuy Thiên Chúa vừa là Đấng Cứu Độ, vừa là Đấng Tạo Dựng, vừa làm chủ lịch sử nhân loại vừa làm chủ lịch sử cứu độ, nhưng trong chính chương trình của Thiên Chúa, sự độc lập đúng mức của tạo vật và nhất là của con người không hề bị hủy diệt, trái lại còn được phục hồi và củng cố theo đúng phẩm giá của mình. Vậy, dựa vào Tin Mừng đã được ủy thác cho mình, Giáo Hội công bố những quyền lợi của con người, nhìn nhận và đánh giá cao sự năng động của thời hiện đại vẫn đang cổ võ cho những quyền lợi ấy khắp nơi. Tuy nhiên, những trào lưu đó phải được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng và phải được bảo vệ tránh khỏi mọi hình thức tự trị sai lầm”.

(25) Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn về quyền tự do tôn giáo, Dignitatis humanae (DH), số 2.

(26) Xem Ernest Fortin, “Human Rights and the Common Good”, CCIA Annual : Rights Authority and Community 13, Philadelphia, 1994, 1-7.

(27) Xem Bryan Hehir, “Religious Activism for Human Rights”, op. cit., p. 104-106.

(28) Xem David Hollenbach, Claims in Conflict, op. cit.

(29) Xem David Hollenbach, “A communitarian reconstruction of human rights : contribution from Catholic tradition”, in R. Bruce Douglass and D. Hollenbach (ed.), Catholicism and Liberalism, Cambridge University Press, 2002, p. 127-150. Nhân quyền cần được xem xét trong mối tương quan với quan niệm mới mẻ về công ích.

(30) “Nhân vị, do chính bản tính của mình, tuyệt đối cần một đời sống xã hội (Cf. Saint Thomas, 1 Ethic. Lect. 1), là và phải là nguyên lý, chủ thể và mục đích của mọi tổ chức. Do đó, đời sống xã hội không phải một cái gì đó thêm vào cho con người …” (GS 25). Công đồng cũng gợi ý rằng chiều kích xã hội của con người có nền tảng thần học, bởi vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp thông giữa các Ngôi Vị. “Khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha để “tất cả nên một…, như chúng ta là một” (Ga 17,21-22), Người mở ra những viễn cảnh mà lý trí không thể tiếp cận được và Người gợi ý cho chúng ta rằng có một sự giống nhau nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa và sự kết hợp của con cái Thiên Chúa trong sự thật và tình yêu” (GS, 24).

(31) Trong thư mục vụ về kinh tế, các Giám mục Hoa Kỳ sẽ định nghĩa nhân quyền là “những điều kiện tối thiểu để sống trong cộng đồng”, Economic Justice for All (1986), số 79 và sẽ coi “sự tham gia” là yếu tố trung tâm của “công lý”. Các quyền bảo vệ khả năng hành động của con người trong xã hội, đây điều thiết yếu đối với phẩm giá của mỗi người.

(32) Sự thừa nhận này giả định việc thoát khỏi chủ thuyết Augustinô chính trị và chấm dứt sự giám hộ cần thiết của Giáo hội đối với Nhà nước. Công đồng công nhận “sự độc lập” và “quyền tự trị” của các lĩnh vực chính trị và tôn giáo, đồng thời mong muốn một “sự cộng tác lành mạnh” giữa hai thực thể này mà, dưới danh hiệu khác nhau, “để phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của chính con người” (GS 76).

(33) Về khái niệm truyền thống như một “truyền thống tìm hiểu” và khả năng đối thoại giữa các truyền thống đối địch, xem Alasdair McIntyre, Après la Vertu. Étude de théorie morale, (trad. fr.), Puf, Léviathan, 1997 ; et surtout Quelle justice ? Quelle rationalité ? (trad. fr.), Puf, Léviathan, 1993.

(34) Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Mặc Khải, Dei Verbum (1965).

(35) Karl Rahner, “Toward a fundamental theological interpretation of Vatican II”, Theological Studies, 40 :4 (December 1979), p. 716-727.

(36) Commission théologique internationale, A la recherche d’une éthique universelle. Nouveau regard sur la loi naturelle, Vatican, 2009.

* Bài liên quan:

NHÂN QUYỀN (1)