Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan (2)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2744 | Cật nhập lần cuối: 4/5/2019 9:42:29 AM | RSS

(tiếp theo)

Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan (2)2.3. Phân loại tôn giáo của các tộc người Nam Bộ

2.3.1. Tôn giáo của người Việt Nam Bộ

Là một vùng đất đa tộc người, nơi đất lành chim đậu của di dân người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm và các tộc người khác, Nam Bộ đã trở thành môi sinh thuận lợi để phát triển các tôn giáo có nguồn gốc Bắc Bộ, Trung Bộ hoặc tiếp biến từ các tộc người cộng cư và từ người Pháp. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam, với đầy đủ bốn loại hình tôn giáo đa thần và độc thần, nội sinh và ngoại sinh. Vì vậy, đời sống tâm linh của người Việt Nam Bộ khá phức tạp, chịu ảnh hưởng đồng thời của nhiều tôn giáo có nguồn gốc khác nhau.

– Các tôn giáo đa thần:

Bao gồm các tôn giáo thờ cúng nhiên thần: phổ biến nhất là thờ cúng Thổ Địa – Thần Tài, Táo Quân, Ông Thiên (gia đình), Cá Ông (đình miễu ven biển), Thành Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần (đình miễu trong nội địa), Bà Chúa Xứ, Linh Sơn Thánh Mẫu (đền miễu ở núi Sam, núi Bà Đen, và rải rác), Ngũ Hành Nương Nương (miễu). Ngoài ra, một số nơi còn thờ cúng Ngọc Hoàng, Mẹ Phật Mẫu Diêu Trì, Cửu Thiên Huyền Nữ, Ông Tà, Hà Bá – Thuỷ Long, Mười Hai Bà Mụ, Ông Tơ Bà Nguyệt, v.v.

Khác với Thành Hoàng có nguồn gốc nhân thần ở miền Bắc, miền Trung, Thành Hoàng Bổn Cảnh ở Nam Bộ là nhiên thần, chỉ có danh hiệu chứ không có lý lịch, thần tích, và chỉ một phần trong số đó có sắc phong thần của triều đình với tên gọi chung là “Thành Hoàng Bổn Cảnh”.

Kế tiếp là các tôn giáo thờ cúng nhân thần: phổ biến nhất là thờ cúng gia tiên – tổ tiên(tang ma, đám giỗ, cúng việc lề), Quan Thánh Đế Quân (gia đình), Bà Thiên Hậu, Ông Bổn(chùa, miễu), tổ nghề nghiệp. Ngoài ra, một số nơi còn thờ cúng Tổ tiên nhân loại (Cửu huyền trăm họ), các danh nhân – anh hùng dân tộc: Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Thầy Thím, liệt sĩ cách mạng (đền, miễu, dinh), v.v.

Ngoài ra, từ sau năm 1954, người Việt Bắc Bộ còn đưa vào một vài nơi ở Nam Bộ (như thành phố Hồ Chí Minh) các tôn giáo thờ cúng nhân thần: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, v.v.

– Các tôn giáo độc thần:

Bao gồm các tôn giáo dân tộc: đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Cao Đài được thành lập năm 1926 tại Tây Ninh, kết hợp đạo Phật với Đạo giáo, Khổng giáo, Công giáo, đạo Thánh Mẫu, có 2,4 triệu tín đồ trên cả nước (2009), tập trung nhất ở Tây Ninh, Bến Tre, Long An, Tiền Giang. Phật giáo Hoà Hảo được thành lập năm 1939 tại An Giang, trên nền tảng Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, kết hợp đạo Phật với tín ngưỡng dân gian, được công nhận tổ chức tôn giáo năm 1999, hiện có khoảng 1,3 triệu tín đồ ở Tây Nam Bộ, tập trung đông nhất ở An Giang. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời năm 1867 tại An Giang, được công nhận tổ chức tôn giáo năm 2010, hiện có khoảng 78.000 tín đồ ở Tây Nam Bộ, tập trung nhất ở An Giang. Ngoài ra, một số người còn tin theo các giáo phái, hệ phái bắt nguồn từ Phật giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương (thành lập năm 1849 ở An Giang, có khoảng 15.000 tín đồ ở Tây Nam Bộ), Huỳnh Đạo (thị xã Châu Đốc, An Giang), đạo Ông Trần (xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa-Vũng Tàu), đạo Dừa (cồn Phụng, xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, Bến Tre), v.v.

Kế tiếp là các tôn giáo thế giới: Phật giáo Bắc Tông, Công giáo, Tin Lành. Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, người Việt Nam Bộ cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, xây dựng chùa chiền trên khắp đồng bằng, đặc biệt là những vùng đồi núi sót. Tính chung tất cả 9 tổ chức và hệ phái bao gồm cả Phật giáo Nam Tông, đạo Phật có khoảng 10.000.000 tín đồ trong cả nước (2010). Đạo Công giáo, đạo Tin Lành cũng có đông tín đồ, phần lớn là giáo dân di cư từ miền Bắc.

Tương ứng với hình thái đa dạng về tôn giáo là mạng lưới dày đặc các cơ sở thờ tự. Rất nhiều cơ sở thờ tự cũng đồng thời là di tích lịch sử – văn hoá của Nam Bộ như đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở Tây Ninh; chùa Bà ở Bình Dương; đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; lăng Ông Lê Văn Duyệt, chùa Ông, chùa Bà ở thành phố Hồ Chí Minh; lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định, lăng Tứ Kiệt ở Tiền Giang; lăng và đền thờ Thoại Ngọc Hầu, miễu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc; đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá; v.v.

Tương ứng với sự phong phú về cách thức hoạt động sản xuất và về tôn giáo, lễ hội của người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm cả bốn loại hình lễ hội truyền thống ở Việt Nam: lễ hội nông nghiệp – ngư nghiệp; lễ hội tưởng niệm danh nhân – anh hùng dân tộc; lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo; và hỗn hợp. Tất cả đều mang sắc thái Nam Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành Hoàng Bổn Cảnh, các thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu – Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Bến Tre, lễ hội Nghinh Ông được tiến hành vào ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các làng ven biển thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri. Trong ngày hội, tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung để nghinh Ông, tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ở Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), Vàm Láng (Tiền Giang)… đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm. Lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên… và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn… đều là những lễ hội long trọng do nhân dân tổ chức, với sự bảo trợ của chính quyền địa phương. Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo bao gồm hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen; lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam; các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ; các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành… Trong số đó, lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ 23/4 âm lịch ở núi Sam, Châu Đốc, một địa chỉ hành hương tiêu biểu của Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,9 triệu người hành hương và du khách (2008).

2.3.2. Tôn giáo của các tộc người thiểu số ở Nam Bộ

Người Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp. Các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Ông Bổn, Khổng Tử… Trong đó, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh, và Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần là ba vị thần được tôn sùng bậc nhất. Bên cạnh đó là hàng chục vị thần của các địa phương. Trong gia đình, người Hoa thờ các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước, Môn Thần, Thổ Địa Bản Gia, Táo Quân, Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Quan Âm Bồ Tát, Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ tiên, tổ sư. Một số người Hoa cũng theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành.

Những nơi thờ phụng công cộng của người Hoa như các hội quán, miếu, đình, đền, chùa, nhà thờ, đều có lối kiến trúc và điêu khắc cổ kính, đặc thù. Những nơi thờ phụng công cộng này không chỉ là trung tâm tín ngưỡng mà còn là trung tâm văn hoá, giáo dục của cộng đồng, nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá nghệ thuật của người Hoa. Riêng Sài Gòn – Chợ Lớn đã có trên 20 nơi thờ phụng công cộng như vậy: các hội quán Minh Hương Gia Thạnh (xây dựng năm 1789), Nghĩa Nhuận, Lệ Châu (Minh Hương – Chợ Lớn), Tuệ Thành (Quảng Đông – Chợ Lớn, xây dựng năm 1796), Quảng Triệu (Quảng Đông – Sài Gòn), Hà Chương, Ôn Lăng, Tam Sơn (Phúc Kiến – Chợ Lớn), Nghĩa An (Triều Châu – Chợ Lớn), Quỳnh Phù (Hải Nam – Chợ Lớn), Quần Tân (Hẹ – Gò Vấp); các miếu Thất Phủ (7 bang – Chợ Lớn), Thiên Hậu (Quảng Đông – Sài Gòn); đình Nhị Bang (Phúc Kiến – Chợ Lớn); đền Ngọc Hoàng Đa Kao (tất cả người Hoa); các chùa Phụng Sơn (Hội chợ Sắt), Trúc Lâm (Phật tử gốc Hoa), Bảo Sơn (Phúc Kiến – Chợ Lớn), Báo Ân (tín đồ Công giáo Hoa); các nhà thờ Cha Tam (tín đồ Công giáo Hoa), Phúc Ân, Tịnh Tâm (tín đồ Tin Lành Hoa), v.v.

Người Hoa cũng có rất nhiều lễ hội: tết Nguyên đán 1/1 âm lịch, vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1, tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng 3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, lễ tế Khổng Tử và 72 tiên nho, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10, tiết Đông chí 15/11; chưa kể các nghi lễ vòng đời.

Phần lớn các tôn giáo và thần linh của người Hoa đã được người Việt Nam Bộ tiếp thu, xem là thần linh của mình. Và người Việt cũng lui tới, chăm sóc các nơi thờ tự các thần linh gốc Hoa này, kể cả những nơi không còn hoặc không có người Hoa cư ngụ.

Người Khmer Nam Bộ theo Phật giáo Nam Tông (Theravada), một tôn giáo mới du nhập từ thế kỷ XIII nhưng đã thay thế đạo Bà La Môn, chi phối rất sâu sắc đời sống của người Khmer. Đối với người Khmer, Phật là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất, là đấng thiêng liêng nhất, còn sư sãi là những người thay Đức Phật để hoằng hoá độ sinh, vì vậy rất được mọi người tôn kính. Ngày nay, bên cạnh việc học tập ở trường phổ thông, nhiều gia đình Khmer cũng theo truyền thống, cho con trai đến tu tập tại chùa để trở thành một con người hoàn thiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng. Bên cạnh đạo Phật, người Khmer vẫn duy trì vật linh giáo với tục thờ cúng Neak Ta là các loại nhiên thần bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực dưới hình tượng là những viên đá cuội bóng láng, và tục thờ cúng tổ tiên với lễ hội Sen Đônta. Còn tục thờ Arăk là bà tổ dòng họ mẫu hệ, bảo hộ gia đình, nhà, khu đất, rừng, vốn phổ biến dưới thời Pháp thuộc, thì hầu như không còn.

Chùa chiền của người Khmer Nam Bộ có kiến trúc rất độc đáo, là nơi thể hiện những thành tựu nổi bật về kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ và hoa văn trang trí của người Khmer. Các ngôi chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm giáo dục, trung tâm văn nghệ, trung tâm hội họp, trung tâm lễ hội của cộng đồng. Tính đến tháng 6/2010, Phật giáo Nam Tông Khmer đã có 452 ngôi chùa với 8.574 vị sư (19,3% tổng số sư trong cả nước), tập trung chủ yếu ở 9 tỉnh thành Tây Nam Bộ: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau. Trong đó, xưa nhất và nhiều nhất là các chùa Khmer trên địa bàn Trà Vinh và Sóc Trăng. Ở Trà Vinh có tới 140 chùa Khmer, vượt xa số lượng chùa của các tộc người khác hiện có trên địa bàn cộng lại. Trong đó tiêu biểu là chùa Âng (chùa Samrông Ek, có từ năm 1642, có thuyết cho là năm 1373), chùa Hang, chùa Nôdol (chùa Cò), chùa Samrônge (tương truyền được xây dựng năm 642, xây dựng lại năm 1850)… Ở Sóc Trăng, có những chùa nổi tiếng như chùa Kh’leang (xây dựng năm 1533), chùa Dơi (chùa Mã Tộc, chùa Ma-ha-tuc, ra đời khoảng đầu thế kỷ XVII), v.v.

Các lễ hội của người Khmer bao gồm hai loại chính là lễ hội nông nghiệp – ngư nghiệp và lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo. Theo truyền thống, người Khmer phân chia lễ hội của mình thành hai loại là lễ hội văn hoá – lịch sử (pithi) và lễ hội có màu sắc Phật giáo (bon). Các lễ hội văn hoá – lịch sử bao gồm lễ Tết (pithi Chôl Chnam Thmây, 14-15-16/4 dương lịch, gồm nghi lễ đắp các núi cát và tắm Phật, tảo mộ ông bà, vui chơi), lễ cúng tổ tiên (pithi Sen Đônta, 29/8 – 1/9 âm lịch Khmer), lễ cúng trăng (pithi Sâm Peak Preach Khe, còn gọi là lễ đút cốm dẹp – Âk Âmbok, 15/10 âm lịch, gồm nghi lễ cảm tạ thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hoà thời tiết, đem lại ấm no, tổ chức đua ghe ngo – Um tuk ngua)… Các lễ hội có màu sắc Phật giáo bao gồm lễ Phật đản (bon Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh (bon Pchum Bôn), lễ tang (bon Sôp)…. Ngoài ra, người Khmer còn có các nghi lễ vòng đời như lễ cắt tóc (đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ chúc thọ, và lễ tang dùng hình thức hoả táng.

Người Việt Nam Bộ tôn trọng tôn giáo của người Khmer và thường tham dự các lễ hội tôn giáo của người Khmer cộng cư. Nhưng họ hầu như không theo các tôn giáo Khmer ngoại trừ một số nơi tiếp thu tục thờ cúng Ông Tà (Neak Ta), với sự phân công lại vai trò của các thần quản lý đất đai qua câu tục ngữ: “Ông Địa giữ nhà, Ông Tà giữ ruộng”.

Người Chăm Nam Bộ hầu hết đều theo đạo Hồi Islam, tôn thờ Thượng đế Allah, Thiên sứ Muhammad, và lấy Kinh Qur’an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng của mình. Hiện cả nước có khoảng hơn 30.000 tín đồ Hồi giáo Islam, hầu hết là người Chăm Nam Bộ.

Mỗi khu vực cư trú (jammaah) của người Chăm Islam đều có một thánh đường (masjid) hay nhà nguyện (surau) làm nơi hành lễ của cộng đồng. Các thánh đường này đều có lối kiến trúc và trang trí rất độc đáo, đặc thù, là thành tựu nổi bật nhất về nghệ thuật của người Chăm Nam Bộ. Tại hai tỉnh thành có người Chăm cư trú đông nhất là An Giang và thành phố Hồ Chí Minh, đều có Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo được chính quyền công nhận, làm chức năng kết nối người Chăm Islam và những người đồng đạo khác với các cơ quan quản lý tôn giáo của Nhà nước và các tổ chức tôn giáo nước ngoài.

Các lễ hội truyền thống của người Chăm Nam Bộ chủ yếu là lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo: lễ Tolakbala vào ngày Thứ tư tuần cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng đế ban sự bình an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9). Các nghi lễ vòng đời gồm có lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh (cha kak buk), lễ thành niên thực hiện tiểu phẫu (khotan) ở bộ phận sinh dục khi con trai và con gái đến 15 tuổi, hôn lễ, và tang lễ dùng hình thức địa táng.

Do dân số ít và sinh hoạt khép kín nên người Chăm Nam Bộ không có ảnh hưởng đáng kể đối với văn hoá Việt trong vùng. Tuy nhiên, trong văn hoá Việt ở Nam Bộ vẫn có những yếu tố Chăm, bao gồm cả những ảnh hưởng tôn giáo, do lưu dân Việt đã hấp thu từ văn hoá Chăm ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ.

3. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TÔN GIÁO NAM BỘ

3.1. Tính đa dạng

Do tiếp biến tôn giáo của các tộc người khác nhau trong lịch sử, tôn giáo của cư dân Nam Bộ có đặc tính đa dạng chứ không thuần nhất. Hầu hết các hình thức tôn giáo từ nguyên thuỷ đến hiện đại đều có mặt ở nơi đây: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới, tôn giáo thờ cúng nhiên thần, tôn giáo thờ cúng nhân thần, tôn giáo đa thần, tôn giáo độc thần.

3.2. Tính dung hợp

Do tiếp biến tôn giáo của nhiều tộc người bản địa và ngoại lai, tôn giáo của cư dân Nam Bộ có đặc tính dung hợp rất cao.

3.3. Tính hệ thống

Hoạt động tôn giáo của các tộc người ở Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng không tồn tại riêng rẽ mà luôn gắn bó với chủ thể văn hoá và thể hiện qua các hoạt động văn hoá khác như tổ chức cộng đồng, phong tục, lễ hội, truyền thuyết, diễn xướng nghệ thuật…, trong các hệ thống văn hoá tộc người.

3.4. Tính dân tộc

Do gắn bó mật thiết với văn hoá tộc người, hoạt động tôn giáo của các tộc người ở Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng có tính dân tộc rõ rệt. Các tộc người, các nhóm địa phương dễ dàng nhận ra nhau qua các hoạt động tôn giáo chung. Sự biến đổi tôn giáo và bất đồng tôn giáo thường tạo ra nguy cơ chia tách các tộc người thành các nhóm địa phương.

4. KẾT LUẬN

Trong xã hội Việt Nam hiện tại, các hình thức tôn giáo không ngừng phát triển. Ở Nam Bộ cũng vậy.

Có nhiều nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển đó, trong đó có nguyên nhân xã hội và nguyên nhân tâm lý. Trong thời kỳ hiện đại, sự phân hoá xã hội, bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, các tôn giáo đã góp phần giải quyết trên thực tế những bất công và khổ ải bằng cách đem lại sự trợ giúp cụ thể về vật chất cần thiết đối với cư dân. Bên cạnh đó, các tôn giáo cũng đồng thời đem lại một con đường giải thoát trong hư ảo cho các tín đồ, đặc biệt là các tầng lớp dưới trong xã hội. Cơ sở giúp cho các tôn giáo phát triển còn là tâm lý thiếu tự tin, bất an cố hữu của con người trước những sức mạnh vĩ đại và những quy luật bí hiểm của tự nhiên mà con người chưa thể nhận thức. Cuối cùng, cơ sở giúp cho các tôn giáo phát triển còn là tâm lý muốn hưởng thụ vật chất và hưởng thụ hạnh phúc dài lâu, vĩnh viễn của con người. Để có thể kéo dài cuộc sống cho đến tận thế giới bên kia, người ta không có cách nào khác là cầu viện sự trợ giúp của tôn giáo.

Để tìm hiểu các vấn đề tín ngưỡng – tôn giáo, cần đặt nó dưới góc độ văn hoá. Tín ngưỡng – tôn giáo nào cũng có nội dung hướng thiện, trừ ác, cũng là một bộ phận văn hoá tinh thần của dân tộc, cần được bảo vệ giữ gìn sự trong sáng, tránh bị vẩn đục vì mục đích kinh tế hay tham vọng chính trị.

Để giải quyết vấn đề tín ngưỡng – tôn giáo, cần đặt nó trong vấn đề dân tộc, vì sự thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam đa tộc người, hướng hoạt động tín ngưỡng – tôn giáo vào việc giúp dân, giúp nước, làm việc thiện.

GVC.TS. Lý Tùng Hiếu
(Trích Thời sự Thần học, số 64, tháng 5/2014, tr. 187-211)

_______________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phú Văn Hẳn chủ biên & Lý Tùng Hiếu hiệu đính (2005), Đời sống văn hoá và xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hoá Dân tộc.

2. Lý Tùng Hiếu (2012), Ngôn ngữ – văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, ISBN: 9786045804193, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

3. Lý Tùng Hiếu (2012), “Diện mạo văn hoá đa dân tộc – đa tôn giáo ở An Giang qua khảo sát điền dã”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn (Annals of USSH), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, số 56, tháng 9/2012, tr. 25-40; http://tapsan.hcmussh.edu.vn.

4. Đỗ Quang Hưng chủ biên (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

5. Trần Hồng Liên (2009), “Giá trị tinh thần truyền thống trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ (nghiên cứu so sánh với Bắc và Trung Bộ)”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập”, do UBND tỉnh Đồng Nai, Ban Chủ nhiệm Chương trình KX.03/06-10 và Khoa Văn hoá học Trường ĐHKHXHNV – ĐHQG-HCM tổ chức, Biên Hoà, 17-19/9/2009; http://www.vanhoahoc.vn.

6. Nhiều tác giả (2000), Văn hoá Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á, TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

7. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB Trẻ.

8. Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm 1945), Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

9. Huỳnh Ngọc Trảng & Nguyễn Đại Phúc & Trương Ngọc Tường & Lý Lược Tam… (2006), Văn hoá & nghệ thuật người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Văn hoá TP. Hồ Chí Minh.

* Tin bài liên quan:

Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan (1)