THẦY là Bản thể của chúng sanh

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 3165 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

Thánh ngôn:


Thầy đã từng dạy các con: Thầy sanh trưởng bảo tồn các con. Thầy đến nước Việt Nam này mở đạo dạy dỗ các con, Thầy không đòi hỏi các con làm những gì đem lại riêng tư cho Thầy, Thầy luôn luôn dạy các con phải thực hành đạo lý cho các con cái của Thầy, nghĩa là phải giác ngộ cho nhau, thương yêu dạy dỗ, đùm bọc cho nhau, bảo tồn cho nhau để cùng nhau được sống trong cảnh thái hòa, cùng hưởng hạnh phúc với nhau mãi mãi, chớ không được thù hằn ganh tị ghen ghét hại nhau rồi tự diệt nhau, vì các con là một trong vạn vật chúng sinh mà vạn vật chúng sinh là bản thể của Đạo, mà bản thể của Đạo tức là bản thể của Thầy. Các con có thương nhau tức là các con đã thương Thầy. Nếu các con ghét nhau, chính là các con ghét Thầy. Mà Thầy có bao giờ làm gì đến nỗi để các con ghét Thầy, có phải vậy hôn các con?

Thầy đã nói:

Thương nhau khác thể thương Thầy,
Ghét nhau khác thể ghét Thầy sao nên!”


I. Ý NGHĨA DANH TỪ “BẢN THỂ”

Danh từ “bản thể” thường dùng để chỉ cái gốc chung nhứt, từ đó mọi hiện tượng, mọi vật thể được sanh ra và phát triển thành vô vàn hình thái, nhưng vẫn luôn luôn ẩn tàng phẩm chất của bản thể.

Ví như nước biển là bản thể của hơi nước, của mây, của nước mưa, của suối, sông rạch . . .

Trong mỗi sinh vật, cái phôi đầu tiên là bản thể của tất cả các tế bào, của tất cả các mô, các cơ quan trong cơ thể sinh vật đó.
Nhưng xa hơn nữa, bản thể của vũ trụ vạn vật là gì?
Bản thể vũ trụ vạn vật đã có từ lúc vũ trụ chưa hình thành, vạn vật chưa phát sinh, là Tuyệt đối thể. Phật gọi là Chân như. Lão gọi là Hư vô (Đạo). Dịch gọi là Vô cực.

Đức Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Như Lai dạy:

“Ngày nào nhân loại tìm hiểu, nhìn nhận lẽ Đạo, không còn phân chia nhĩ ngã, không còn phân biệt đạo này, tôn giáo nọ, tất cả chúng sanh từ nhân loại đến thú cầm thảo mộc cùng đều chung một bản thể, mỗi một đơn vị cá nhân, cá tính, cá vật đều là một phần tử của đại toàn thể hay là của Đạo, chừng đó may ra nhân loại mới thấy được yến sáng đạo lóe ra trong tâm thức mà tìm mối phăng về cùng khối đại toàn thể.”

Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:

Người là bản thể của thiên nhiên,
Hữu hữu vô vô diệu diệu huyền,
Tuy ở hồng trần đừng dấy bợn,
Không ham phàm thể đắc Chơn Tiên
.


II. MẠC KHẢI CỦA THẦY:

Muốn hiểu được huyền nghĩa của thánh ngôn trên đây của Đức Chí Tôn, cần phải tập trung suy nghiệm những sự kiện lịch sử khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhất là những mạc khải siêu mầu về Thượng Đế, về Đại Đạo, về Cơ cứu độ Kỳ Ba.

1. Sự lâm phàm của Đức Thượng Đế để mở ra Tam Kỳ Phổ Độ quả thật là một dấu ấn nổi bật nhất của Đạo Kỳ ba mà cũng chính là sự biểu thị Đại Đạo.

Ngày 24-12-1925, đúng vào đêm kỷ niệm lịch sử của Đức Ki Tô giáng sanh, Đức Chúa Trời, Thượng Đế Chí Tôn, chính thức báo tin mừng cuộc thân hành giáng lâm của Ngài tại trần gian bằng danh xưng như sau:

“NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG” với bốn câu thơ:

             Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
             Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên,
             Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
             Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.


Bốn câu thơ có ý nói Ngài đã lâm phàm, Ngài nhắc cho chúng sanh biết Ngài vẫn hiện hữu và vẫn nắm giữ chủ quyền cả Càn khôn vũ trụ. Đây là một cảnh cáo đối với kẻ tội lỗi và một sự trấn an cho những người lành. Dẫu sau cũng còn Ngài, hãy vui lòng tu niệm để được ơn cứu rỗi của Ngài.

Ít lâu sau Ngài công bố: “Thầy nhất định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa.”

Lời xác quyết đó khẳng định Ngài là Giáo chủ Vô vi của Đại Đạo, Giáo chủ của tất cả các Giáo chủ. Chỉ có Ngài là Đấng duy nhất ở địa vị đó. Trên Ngài không còn có thần quyền nào nữa cả, Ngài ngự trị vạn linh của tất cả các địa cầu và trên tất cả các Đấng trong cõi vô hình, nên người phàm lẫn các bậc Thiêng Liêng đều xưng tụng Ngài là “Thượng Đế Chí Tôn”.

Kinh “Tiếng trống Giác mê” có viết:

Thầy là bậc hoàn toàn, vĩnh viễn, trường cửu trong cõi hư vô tuyệt đối. Nay vì lòng bác ái của Thầy muốn cho các con tiến hóa về nẻo tinh thần đạo đức, nên chi Thầy dụng cái phương pháp phi thường ngoài sự hiểu biết của phàm nhân mà dạy các con. Thầy tức là nguyên lý của vô vi Đại Đạo, chủ quyền tạo hóa của cả Càn khôn vũ trụ và sinh sản của các thiên lý để gieo truyền cho nhân vật từ giống thấp hèn đến loài cao trọng, ấy là nguồn cội vô thỉ vô chung đó các con.

2.- Theo đó ta thấy trước nhứt Ngài là Đấng tuyệt đối thuộc về Hư Vô:

Khí Hư Vô sanh có một Thầy. (…) Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn Khôn thế giới này, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.

Vậy xét về bản thể thì Thầy là Hư Vô Chi Khí, còn xét về nguyên nhân sinh hóa vũ trụ thì Thầy là Nguyên Lý Đại Đạo.
Chúng ta hãy nghe Ngài xưng danh với đầy đủ bổn thể, chủ thể và quyền năng của Ngài như sau:

HUYỀN huyền diệu diệu chí linh linh,
KHUNG sắc hào quang hiện Ngọc Kinh.
CAO ngự chương tòa thần mặc mặc,
THƯỢNG triều Bửu điện khí khinh khinh.
ĐẾ cung Thánh, Phật giai cung hỷ,
KIM khuyết Thần, Tiên cụ tiếp nghinh.
VIẾT Thích, viết Nho, viết Đại Đạo,
CAO ĐÀI dưỡng dục hóa quần sinh.

Phân tích ý nghĩa các câu thơ, ta thấy:
+ 2 câu đầu: Bản thể của Thượng Đế:
HUYỀN huyền diệu diệu chí linh linh,
KHUNG sắc hào quang hiện Ngọc Kinh.
+ 2 câu 3 & 4: thần khí của Ngài:
CAO ngự chương tòa thần mặc mặc,
THƯỢNG triều Bửu điện khí khinh khinh.
+ 2 câu kế: thần oai của Ngài.
ĐẾ cung Thánh, Phật giai cung hỷ,
KIM khuyết Thần, Tiên cụ tiếp nghinh.
+ 2 câu cuối: Quyền năng chấp chưởng các mối đạo và hóa dục quần sanh của Đức Chí Tôn Cao Đài:
VIẾT Thích, viết Nho, viết Đại Đạo,
CAO ĐÀI dưỡng dục hóa quần sinh.

3.- Thầy là Nguyên lý của vô vi Đại Đạo

Để giúp chúng ta trực giác được Ngài là Nguyên lý Đại Đạo, Ngài từng mượn 3 chữ A, Ă, để làm ký hiệu của Ngài trong những lần còn ẩn danh lâm phàm:
* A Ă Â chẳng phải là tên vì không ráp được thành chữ. Không có cái tên nào hoàn toàn xứng đáng với Chủ thể tuyệt đối của vũ trụ.
* A Ă Â chẳng phải là hình vì không vẽ thành nhơn vật. Không có hình ảnh nào mô tả nổi nguyên lý hằng hữu của vạn vật.
* A là đầu tiên, là nguyên thỉ, Ă và Â là hai mặt của A; Ă Â vốn nhất thể nhất nguyên với A.
Đó là nguyên lý “Nhất Âm Nhất Dương chi vị Đạo” (Dịch hệ từ thượng).

4.- Ngài là Cha, cũng là Thầy của chúng sanh
:


Thuở mới khai đạo, một hôm Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc chấp bút, hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo): phàm hễ Cha là Cha, còn Thầy là Thầy, tại sao Đại Từ Phụ là Cha còn xưng là Thầy nữa?
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng bút dạy rằng:

Il est en même temps Père et Maître,
Parce que c'est de Lui vient tout son être.
Il nourrit notre corps de ce qui est sain,
Il fabrique notre esprit de ce qui est divin.
En Lui, tout est science et sagesse,
Le progès de l’âme est son oeuvre sans cesse.
Les viles matières sont joyeux à ses yeux,
De vils esprits, il en fait des Dieux.
Sa loi est l'amour, sa puissance est la justice,
Il ne connaît que la vertu et non la vice.
Père: Il donne à ses enfants sa vitalité,
Maître: Il leur lègue sa propre divinité.

Xin tạm dịch:

Ngài là Cha lại là Thầy cao cả,
Vì từ Ngài sanh hóa hết muôn loài.
Thân phàm đây do thánh chất Ngài nuôi,
Nhân trí ấy nhận nơi Ngài linh tánh.
Trong Ngài đủ kiến văn và minh tánh,
Ngài không ngừng làm tiến hóa hồn con.
Vật đơn sơ xem ngộ nghĩnh muôn phần,
Tâm chất phác Ngài làm nên các Đấng.
Luật là yêu thương, quyền là công chánh,
Là Thiên tâm không vương vấn bụi trần.
Là CHA: đem sự sống đến cùng con,
Là THẦY: đã chia phần thiêng liêng đó!

Chúng ta cần chú ý câu: “C'est de lui vient tout son être” (Từ Ngài sanh hóa hết muôn loài) có nghĩa mọi tạo vật đều thọ bẩm nơi Ngài sự sống và trí khôn. Không phải vạn hữu được cấu tạo như một sở vật ngoại tại mà vạn hữu hình thành như bông trái nảy sinh từ nhựa sống của gốc rễ. Đức Chí Tôn xác minh:
“Một Chơn Thần Thầy mà sinh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong càn khôn thế giới.”

Ngài lại phán: “Thầy nói cho các con hiểu rằng: muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm.

Quả thật, Đức Thượng Đế vừa là Cha, (Đại Từ Phụ) vừa là Thầy của chúng sanh vì chúng sanh được Ngài sanh hóa ra rồi lại thúc đẩy cho tiến hóa. Thậm chí đến thời Hạ nguơn này còn đích thân lâm phàm thâu nhận các con cái làm học trò để dìu dắt lên đường giải thoát.

Nhìn lại lịch sử nhân loại song song với lịch sử các tôn giáo, ta thấy chỉ trong thời Tam Kỳ Phổ Độ mới có sự hi hữu là Đức Chí Tôn thân hành mở đạo phổ độ quần sanh.


Ngài là “Tột đỉnh” của “Nhất nguyên”. Sự lâm phàm của Ngài là tất yếu cho thời kỳ “Qui nguyên phục nhất” khi thế gian đã đến giai đoạn cực kỳ phân hóa và ở bên thềm thoái hóa. Nhưng không phải Ngài đến để tỏ ra hiện hữu mà đến để thể hiện và thực hiện trọn đủ cái phạm trù: “Thượng Đế - Đạo - Chúng sanh”.

III. THƯỢNG ĐẾ - ĐẠO - CHÚNG SANH

Phạm trù này vốn là chân lý muôn đời, nhưng hiện thực nó là sứ mạng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà đối tượng là toàn thể chúng sanh, cứu cánh là Thiên nhơn hiệp nhứt, pháp môn là giáo lý thuần nhứt của Đại Đạo.

Vậy việc giáng trần mở Đạo của Đức Thượng Đế là một dấu ấn của Tam Kỳ Phổ Độ, thiếu dấu ấn đó, Kỳ ba không còn thực chất Đại Đạo.


                 "'Chính mình Thầy đến chốn Nam bang,
                   Mượn đất đem gieo mối Đạo vàng."

Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lý đạo CHÚNG SANH = ĐẠO = THẦY = BẢN THỂ là một nguyên lý hết sức đặc biệt thuộc Cơ Cứu Độ Kỳ Ba. Vì nó bao gồm những xác tín:


- Xác tín bình đẳng giữa chúng sanh trong vũ trụ,


- Xác tín chúng sanh là thực thể của Đạo,


- Xác tín Thượng Đế là động năng tuyệt đối của Đạo,


- Xác tín Tổng thể Càn Khôn vũ trụ bao gồm Thực tại vô hình và Thực tại hữu hình mà BẢN THỂ là nguyên lý Hằng hữu và Tương quan bất tuyệt giữa Chúng Sanh-Thượng Đế và Đạo.

Vậy, đoạn thánh ngôn: "Chúng sanh là Bản thể của Đạo, mà Bản thể của Đạo là bản thể của Thầy” có thể phát biểu như một kết đề:


THẦY LÀ BẢN THỂ CỦA CHÚNG SANH.

Suy niệm kết đề nầy, chúng ta càng nhận thức được ý nghĩa đặc biệt của sự kiện lịch sử “Chính mình Thầy mở Đạo”, nhận thức được Sứ mạng Đại Đạo trong Tam kỳ Phổ độ. Và nhất là biết được thực chất của chúng sanh, từ đó suy ra thực chất Thượng Đế là ai. Cuối cùng qui chiếu những nhận thức ấy vào sáu chữ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

1-Xác tín bình đẳng giữa chúng sanh trong vũ trụ


Thương nhau: Tặng vật hiến dâng Thầy,
Chẳng luận loài nào khắp đó đây.
Thương nhóm không quen nơi hướng bắc,
Thương đoàn lạ mặt chốn phương tây.
Dắt người đọa lạc về đường chánh,
Dẫn kẻ gian tà lại nẻo ngay.
Khôn dại, ngu khờ, lo tận độ,
Thương nhau: Tặng vật hiến dâng Thầy.

2- Xác tín chúng sanh là thực thể của Đạo
Thánh ngôn:
“Đạo muốn đạt được chỗ bí yếu là cái cứu cánh và tác dụng đó các con. Nếu không đạt được cái cứu cánh và tác dụng đó thì dầu với danh từ nào tốt đẹp hoặc tổ chức nào nói rằng tốt đẹp cách mấy đi chăng nữa cũng không ý nghĩa gì hết. Có phải vậy không các con?
Các con ơi! Luôn luôn lúc nào và bất cứ ở đâu cũng vậy, các con phải kiểm điểm và tâm niệm rằng mình là người có đạo, mang một hoài bão cao cả, một lý tưởng cao cả trong sứ mạng thế Thiên hành hóa, giáo dân vi thiện, đem đạo cứu đời. Mình phải nói gì, phải nghĩ gì và phải làm gì để thực hiện cái hoài bão, lý tưởng của người sứ mạng đó
.”


Kinh nhập học:

“Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh vô tự độ người thiện duyên.”
Kinh xuất hội:
“. . . Vạn linh đã hiệp Chí linh,
Hội xong cậy sức công bình thiêng liêng.
Ðã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.
Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh.”

3- Xác tín Thượng Đế là động năng tuyệt đối của Đạo

Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế ( Kinh nhựt tụng của đạo Cao Đài):

“Đại La Thiên Đế,
Thái Cực Thánh Hoàng,
Hóa dục quần sanh,
Thống ngự vạn vật.
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
Nhược thiệt nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa,
Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh.
Thời thừa lục long du hành bất tức,
Khí phân tứ tượng, oát triền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến.
Huyền phạm quảng đại,
Nhứt toán họa phước lập phân. (Ngọc Hoàng Thượng Đế Kinh-Xem thêm phần Phục lục)
……………………………”
4-Xác tín Tổng thể Càn Khôn vũ trụ bao gồm Thực tại vô hình và Thực tại hữu hình

Con ơi Thầy đến lúc đầu canh,
Thông thấu thần quang cõi trọn lành.
Gió núi sóng cồn chưa ổn định,
Sương mai nắng hạ vẫn xoay quanh.
Càn khôn trẻ muốn cư chung thất,
Thiên địa con toan động tác thành.
Ngưỡng cửa viên dung là chữ Nhứt,
Không tìm sao thấy ở hình danh?


IV. SÁU CHỮ “ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”

Nếu qui chiếu Nguyên lý “Thượng Đế = Đạo = Chúng sanh = BẢN THỂ” vào Sáu chữ “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, chúng ta có thể phân tích:
- Hai chữ “ĐẠI ĐẠO”: không đơn thuần có nghĩa là Đạo lớn, Con đường lớn hay Thiên đạo vượt lên trên ý nghĩa Đạo là tôn giáo; mà hơn thế nữa, Đại Đạo là thực tại vô biên bao gồm Bản thể của Thượng Đế, Bản thể của chúng sanh và Nguyên lý vận hành hóa sinh vũ trụ vạn vật. (Đạo)
- Tam Kỳ Phổ Độ: Quyền năng Đại Đạo cứu độ nhân sanh vào Thời kỳ thứ ba của đại chu kỳ tiến hóa của vũ trụ theo Thiên cơ.
Nên khi dạy về thiên mạng của con cái của Thầy, Thầy có thánh huấn như sau:
&ldqu