Bàn về thuyết "Tam Phụ" trong Đạo Thiên Chúa

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 676 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS
BÀN VỀ THUYẾT ‘’TAM PHỤ’’ TRONG ĐẠO THIÊN CHÚA,
MỘT BƯỚC ĐI VÀO VĂN HÓA VIỆT NAM

 

Bàn về thuyết Các giáo sĩ đạo Thiên Chúa từ Tây phương sang Việt nam vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, chính vào lúc Nho thịnh, Phật và Lão suy. Cho nên tiếng là đi vào đất của tam giáo, nhưng thực ra chỉ gặp gỡ và đối thoại với Nho giáo mà thôi. 


Để giải thích tình trạng đó, có người cho rằng Phật giáo đã rất thịnh trong mấy thế kỷ được các vua nhà Lý, nhà Trần, rất mực nâng đỡ, thế rồi thịnh quá hóa suy, là hợp với lẽ tuần hoàn trong trời đất. Tôi không biết được lẽ trời, nhưng thiết tưởng còn có lý do khác. Thực vậy, gặp lúc sự sống còn của dân tộc, của quốc gia, bị quân Nguyên, rồi quân Minh, đe dọa một cách cực kỳ nghiêm trọng, những người có trách nhiệm trong nước không thể lấy phép tu tiên, lấy quan niệm điềm tĩnh vô vi, bất động, bất bạo động, lấy con đường giải thoát cá nhân ra khỏi vòng sinh tử, làm phương tiện bảo vệ đất nước. Lý do làm cho Nho thịnh, đó là vì có đưa ra được những nguyên tắc để tổ chức xã hội sao cho hùng mạnh, có trật tự. Dân chúng cũng nghĩ như thế, cho nên đinh ninh rằng Trời, rằng Phật, đều dậy chính đạo tam cương ngũ thường, cũng dậy người ta phải trung phải hiếu. 


Người Việt, bên lương cũng như bên giáo, thường có điều thắc mắc, vì nghĩ rằng theo đạo từ ngoại quốc đưa vào, thì tất không hợp với tập tục của mình. Có người cho rằng đi đạo là bỏ ông bà cha mẹ. Vì thế ngay từ buổi đầu, các giáo sĩ đã ra công giải thích rằng : tuy đạo Thiên Chúa từ Thái-tây truyền sang, nhưng nguồn gốc nó lại là từ Tiểu-Á, đàng khác truyền thống tam giáo Việt nam cũng là từ ngoại quốc, Ấn-độ và Trung-hoa, đem vào, và sau cùng thì người theo đạo Thiên Chúa sống ở đời cũng không ngoài phạm vi trung hiếu, có khác chăng là khác thể thức. 


Muốn giảng tin lành cho một xã hội tổ chức trên căn bản Nho giáo, lẽ tất nhiên là các giáo sĩ đạo Thiên Chúa phải nói đến lập trường của mình về tam cương ngũ thường, vì lẽ rằng từ vua quan cho đến dân chúng, ai cũng đứng vào lập trường của chính đạo để đánh giá tin lành, xem có thể chấp nhận được hay là không. Sau đây tôi xin đề cập đến phần quan trọng của tam cương, và xin nói về ngũ thường trong một dịp khác.  


Thuyết ‘’tam phụ’’ đã được giáo sĩ đạo Thiên Chúa giảng dậy ở Việt nam từ thế kỷ XVII. Cho đến cuối thế kỷ XIX, sách vở vẫn còn trình bầy thuyết đó. Có lẽ cũng là để trả lời cho những ai, trong thời Văn-thân, trách đạo Thiên Chúa là đạo ‘’vô phụ vô quân’’, như tôi sẽ nói sau đây. 


Theo thiển ý, thuyết ‘’tam phụ’’ là một lối hội nhập văn hóa rất khéo : vừa nói lên được điểm tương đồng với quan niệm ‘’tam cương’’, vừa trình bầy được quan niệm đặc biệt của đạo Thiên Chúa. 


Sau đây tôi xin nói trước hết về liên quan giữa đạo Nho và đạo Thiên Chúa, sau đó trình bầy mấy văn kiện về thuyết ‘’tam phụ’’, và sau cùng thì xin đưa ra một vài nhận xét. 


1. Liên quan phức tạp giữa đạo Nho và đạo Thiên Chúa 


Xét cho cùng thì tam giáo cũng có nhiều chỗ dị biệt với nhau. Còn riêng đạo Thiên Chúa thì có những điểm tương đồng với tam giáo, nhưng cũng có những điểm dị biệt. Về mặt lý thuyết thì những điểm tương đồng phải là nền móng cho cuộc gặp gỡ trao đổi, những điểm dị biệt phải là những yếu tố có thể bổ túc và làm giầu cho truyền thống tôn giáo Việt nam. 


Thí dụ như trong tư tưởng Lão giáo, ta thấy có những suy luận về đạo là thực thể căn bản, vượt lên trên khả năng hiểu biết và diễn tả của con người, cũng như Đức Chúa mà người theo đạo Do thái không thể và không được lấy tên gì để gọi cả. Rõ rành là danh khả danh phi thường danh. Về đạo Phật thì các giáo sĩ tây phương thấy rõ là giới tăng sĩ cũng có chủ trương xuất gia tu hành, cũng chú trọng vào việc an tĩnh tư niệm như mình. Có điều là vào thời đạo pháp đang đi xuống, một đàng thì ít ai biết đến tư tưởng Lão Trang và những hoạt động có tính cách phù thủy hay ma thuật thì người ta lại cho là của Đạo giáo, đàng khác thì dân chúng, tiếng là theo đạo Phật, nhưng vẫn hoạt động tranh sống, chứ có mấy khi nghĩ đến việc giải thoát ra ngoài vòng sinh tử. 


Về Nho giáo : theo như tôi hiểu thì Nho gia không để ý đến phần lý thuyết hình nhi thượng cho lắm, vì nhiều lẽ : thiên hà ngôn tai ? Vị tri sinh yên tri tử ? Quỉ thần kính nhi viễn chi, vân vân. Nhưng nếu ta bỏ phần đó ra thì cái dự định nhập cuộc của nhà Nho, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, cũng theo một hướng như dự định nhập thế của đạo Thiên Chúa. Người theo đạo Thiên Chúa không thấy mình bỏ mất luân thường đạo lý, như người ngoài hay dị nghị. Trong thập giới thì có giới thứ bốn dậy thảo kính cha mẹ và vua quan. Cho nên khi bị hạch tội về điểm đó, người ta cho là có sự hiểu lầm tầy trời. 

 

Một trong những lý do làm cho nhà nho ghét đạo, cấm đạo, đó là vì người ta đinh ninh rằng người theo đạo Thiên Chúa không biết gì đến đạo vua tôi, đến nghĩa cha con. Trong lúc phong trào ‘’bình tây sát tả’’ đang lên mạnh, bài hịch của văn-thân tung ra ngày mồng hai tháng hai năm Tự-Đức thứ hai mươi bẩy, có mấy câu chửi bới nặng lời như sau : ‘’Huống chi đạo Gia tô vào nước ta chúng thường xưng trời xưng thánh, làm ngu muội dân ta. Nói về giáo lý thì vô phụ vô quân, thật là loài dê chó... Nay giảng thuyết đạo theo thói cha lợn xề, mẹ chó, tự làm ô uế danh giáo. Thuyết Chúa Lời Giêsu nghe lại càng ô uế’’[1] . Có điều thật đáng chú ý là khi viết chữ ‘’Lời’’ (trong câu hán văn ‘’Chúa Lời Giêsu chi thuyết’’), thì người viết hịch lại dùng chữ ‘’lợi’’(nghĩa là ‘’lợi ích’’ hay ‘’lời lãi’’) chứ không theo cách viết của người theo đạo Thiên Chúa ( viết chữ ‘’thiên’’ trên chữ ‘’thượng’’) . Như thế chứng tỏ rằng người viết hịch không biết chi đến sách chữ nôm của đạo Thiên Chúa. Có lẽ vì mỗi khi được sách vở của ‘’tả đạo’’ thì người ta đốt đi chứ không đọc làm gì. 


Cần phải nói thêm là sĩ phu và vua quan của ta thật rất ít người tìm xem người theo đạo Thiên Chúa tin những điều gì, ăn ở ra sao. Trong số những người được hiểu biết về lẽ đạo, thì có một số người nhà nho, có khi đã ra làm quan, xin theo đạo, một số khác không theo vì có địa vị và trách nhiệm trong phủ chúa, nhưng vẫn giữ mối thiện cảm với người có đạo và để cho vợ con theo đạo. Nói chung chung thì đa số không tìm hiểu, có lẽ vì họ chắc chắn là mình đã có chính đạo rồi. 


Trái lại giáo sĩ Tây phương đã cố gắng rất nhiều để tìm hiểu tín ngưỡng và văn hóa của người Việt nam. Theo như chỗ tôi được biết và được đọc, thì vào giữa thế kỷ XVIII họ đã soạn ra một cuốn sách bằng tiếng latinh và một cuốn bằng chữ quốc ngữ về những tín ngưỡng và lễ nghi tôn giáo của ta, mà viết thật là tỉ mỉ. Sau này có những vị soạn tự điển, có cả chữ nôm lẫn chữ Hán nữa. 


2. Trình bầy mấy văn kiện về thuyết ‘’tam phụ’’ 


Văn kiện sớm nhất về thuyết ‘’tam phụ’’, nghĩa là ‘’ba cha’’, mà chúng ta có, đã được in bằng chữ quốc ngữ, kèm bản dịch bằng tiếng latinh, trong cuốn sách Phép giảng tám ngày do giáo sĩ Alexandre de Rhodes cho xuất bản tại Roma năm 1651. Lẽ tất nhiên không phải đến năm đó các giáo sĩ mới lập ra thuyết ‘’tam phụ’’, mà là trước đó mấy chục năm, các giáo sĩ đã tìm cách giảng cho người Việt ta hiểu vị trí của Đức Chúa Trời (Thiên Chúa) trong hệ thống tam cương, và dần dần thuyết đó mới được thành hình. Trong mấy thế kỷ tiếp theo, thuyết đó vẫn được giảng cho giáo dân. Vì đó là văn kiện căn bản, lại khó tìm, nên tôi xin chép đoạn văn tiếng việt đó ra đây, theo cách viết tiếng Việt bây giờ, nhưng không chép bản tiếng latinh. Sau đó tôi tìm trong sách vở mấy thế kỷ sau, để xem thuyết ‘’tam phụ’’ đã được các bậc tiền bối chúng ta quảng diễn ra như thế nào. Và sau cùng thì xin nhắc qua đến dư âm của văn kiện này trong sách Tây dương Gia tô bí lục, là sách của người chống đạo Thiên Chúa.  


a) Thuyết ‘’tam phụ’’ trong sách ‘’Phép giảng tám ngày’’ [2] 


‘’Có ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào, cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta : đấng giữa là vua Chúa trị nước : đấng trên là đức Chúa trời đất, làm Chúa thật trên hết mọi sự : có ba đấng này ta mới được sống, được ở. Vì chưng ta có cha mẹ thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ : song le linh hồn ta chẳng phải bởi cha mẹ mà ra đâu. Ta chịu ơn mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm : có khi thì mẹ cắt của mình ăn mà cho con ăn : cũng có khi mẹ ăn miếng đắng, mà miếng ngon để dành cho con ăn : lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng, vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ, mà làm nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng. 


Vua Chúa cùng gọi là cha cả và nước, cùng các dân : chẳng có vua Chúa, thì nước ở an lành chẳng được : vì chưng vua Chúa trị nước cho dân ở được an lành. Vì vậy vua Chúa thì giữ nước, và cho kẻo giặc bề ngoài phá nước làm khốn dân sau thì sửa trong nước, làm cho đại thần hòa thuận cùng nhau và tiểu dân yêu đang (= đương) thông việc cùng nhau nữa (inferiores vero amicitiam invicem et communicationem sectentur). Ví bằng chẳng có vua Chúa sửa nước một ngày, thật là có ra những sư long đong, hỗn hào trong dân mà chớ. Đại thần trong nước quân tử thì giúp vua Chúa trị nhậm sứa nước. Tiểu nhân thì ra tiền năm tiền quí giúp việc vua Chúa nữa. Vì vậy hễ là kẻ ở trong nước thì phải kính dái vua Chúa ? Ví bằng có ai trong nước mà theo ngụy thì chịu phạt đã đáng. 


Hãy còn cha cả là Chúa trên hết mọi sự : đã hóa nên và giữ gìn trời đất muôn vật cùng hết mọi sự. Nào có ai hồ nghi mà chẳng chịu thờ phượng đấy trên hết mọi sự, mà chẳng dại ru ? Thủa xưa khi chưa có trời, chưa có đất, chưa có đí gì, mà đã có một đức Chúa trời thanh nhàn vui vẻ vậy chẳng có thiếu gì sốt, mới sinh ra trời, sinh ra đất, lại hóa ra mọi sự ở trong trời này nữa. Trên trời thì hóa ra mặt trời mặt trăng, cùng ngôi sao cho ta được sáng. Ví bằng chẳng có sáng, ta ở làm sao được ? Dưới hạ giới này thì sinh ra muông chim cầm thú, hoa quả, cây cối, rau cỏ cho ta ăn. Cùng có làm nên gỗ, nước, lửa, gió cùng các kỳ sự cho ta dùng. Ví bằng thiên hạ chẳng có mưa chẳng có nắng ta sống làm chi được ? Thật trời đất cùng mọi sự ở trong thế giới này bởi một đức Chúa trời rộng rãi vô cùng mà có. Vì vậy ta cám ơn đức Chúa trời là cha cả chúng tôi, và thờ phượng đấy trên hết mọi sự thì thậm phải’’. 

 

b) Thuyết ‘’tam phụ’’ về sau được quảng diễn như thế nào ?  


Văn kiện trên đây thực ra hơi khó đọc, vì một là viết theo kiểu nói trước đây hơn ba trăm rưởi năm, hai là vì các giáo sĩ Tây phương phải dịch nó ra từ tiếng latinh là tiếng có những ý niệm và cách đặt câu rất khác xa tiếng Việt. Tuy vậy cũng không đến nỗi khó hiểu.


Có một điều chắc là người giảng đạo, từ giáo sĩ ngoại quốc cho đến thày giảng bản xứ, ai nấy đều tùy hoàn cảnh, tùy trình độ hiểu biết và câu hỏi của người nghe mà giải thích, quảng diễn những ý kiến căn bản trên đây. Dần dần xếp đặt lại cho có thứ tự mạch lạc, nhất là đến lúc thấy cần phải soạn ra sách Thánh giáo yếu lý, gọi là sách Bổn dạy đạo thánh, để cho giáo dân học thuộc lòng. Có thể nói đây là lần đầu tiên người Việt được học về tôn giáo một cách có hệ thống, có phần đoạn, và đi từ những chân lý nền tảng cần phải biết, cần phải tin, cho đến những điều thực hành, như luân lý phải giữ và lễ nghi cầu kinh trong việc thờ phượng.  


Trong sách Bổn. 


Soạn giả của cuốn sách Bổn đầu tiên, sắp xếp theo thứ tự câu hỏi, câu thưa, là giám mục Bá-Đa-Lộc, Pierre Pigneaux de Béhaine [3], được ủy nhiệm coi sóc địa phận Đàng Trong. Hiện nay ta thấy trong thư viện và văn khố của Hội Thừa sai Missions étrangères de Paris, có bản viết tay, bằng chữ quốc ngữ, theo tiếng Đàng Trong, viết năm 1774, và bản chữ nôm viết năm 1782. Hai bản chỉ khác nhau về một vài chi tiết không đáng kể. 


Vì sách Bổn dành cho giáo dân chỉ nói lên một cách vắn tắt những điều căn bản mà người giảng đạo phải giải thích và quảng diễn thêm, cho nên về quan niệm ‘’tam phụ’’, ta chỉ thấy có vài câu được xếp gọn ghẽ vào giới thứ bốn trong thập giới, như sau : 


‘’ H(ỏi) : Giái (giới) thứ bốn dạy ta những gì ? T(hưa) : Dạy ta phải thảo kính, vâng lời chịu lụy cùng giúp đỡ cha mẹ’’ (tr. 50). 


Có thể nói : tất cả nội dung chữ hiếu là ở đó. Có khác chăng thì là ở chỗ, vì lý do tín lý, người theo đạo Thiên Chúa không quải lạy đơm tế ông bà cha mẹ theo như nghi lễ của các tôn giáo khác ở Việt nam, nhưng theo như thể thức và nghi lễ riêng của đạo mình. Tiếp theo đó : 


‘’ H(ỏi) : Giái (giới) này dạy ta phải thảo kính cha mẹ mà thôi sao ? T(hưa) : Cũng dạy ta phải kính thờ mọi kẻ bề trên, như vua chúa quan quờn (quyền), chúa nhà cùng thày dạy dỗ và những kẻ già nua tuổi tác nữa’’ (tr. 52)  


Câu trả lời đó bao trùm được cả lòng trung với vua (quan), lẫn nghĩa thày trò và lòng tôn kính đối với những người có tuổi. Sau cùng còn thêm vào đó những điều mà kẻ bề trên phải làm đối với kẻ bề dưới : dạy dỗ, sửa phạt, làm gương tốt và dưỡng nuôi (tr. 53). 


Về sau này sách Bổn được in ra khá nhiều lần, cả chữ nôm lẫn chữ quốc ngữ , mỗi lần in mỗi khác, vì thường có tu bổ thêm, có bàn rộng thêm về các khoản trên đây về ‘’tam phụ’’, và thường lấy lại trong các sách như Chân đạo yếu lý và Chân đạo dẫn giải.  


Trong các sách ‘’Chân đạo yếu lý’’ và ‘’Chơn đạo dẫn giải’’ [4]. 


Hai cuốn sách Chân đạo yếu lý (CĐYL) và Chơn đạo dẫn giải (CĐDG), in vào cuối thế kỷ XIX, vào lúc Văn-thân vẫn còn hoạt động mạnh, đều dành phần thứ ba cho vấn đề ‘’tam phụ’’. Hai cuốn đi vào vấn đề theo hai thứ tự ngược nhau, nhưng nội dung rất gần nhau. 


Nếu trước đây Alexandre de Rhodes dùng chữ Việt ‘’ba cha’’, thì hai cuốn sách ở đây dùng chữ Hán-Việt ‘’tam phụ’’. Cuốn thứ hai, CĐDG, còn giải nghĩa ngay cho rõ rằng : thượng phụ là Đức Chúa Trời, trung phụ là vua, hạ phụ là cha mẹ. CĐYL giải thích :’’Vậy có ba đấng gọi là TAM PHU, vì ba đấng ấy hay thương người ta như cha thương con, cho nên người ta phải kính thờ đấng có lòng thương mình như con kính thờ cha mẹ vậy’’(tr. 47). 


Bàn về hạ phụ, là cha mẹ, trước tiên hai sách nói đến công ơn cha mẹ, sau đó thì cả hai cuốn cùng xướng ra bảy điều phải làm để tỏ lòng báo hiếu: 1) ‘’kính sợ cha mẹ, như dân kính sợ đấng làm vua và tôi tá kính sợ chúa mình vậy’’(CĐYL, tr.48) ; 2) vâng lời chịu lụy cha mẹ ; 3) nuôi nấng cha mẹ, chẳng nên bỏ cha mẹ đói khát rách rưới ; 4) Khi cha mẹ ốm đau thì phải nhẫn nhục mà săn sóc ngày đêm ; 5) khi cha mẹ qua đời thì phải lo tống táng và xem sóc mồ mả cha mẹ. Năm điều này thì người không theo đạo Thiên Chúa cũng biết cả. Còn hai điều sau cùng thì riêng cho người có đạo: 6) khi cha mẹ lâm chung thì phải lo liệu về phần hồn, cho người được chịu các phép trong đạo, và sau đó thì phải đọc kinh, phải làm các việc lành phúc đức, để cầu nguyện cho người : đó là trả ơn về phần linh hồn. 7) Khi làm lễ tống táng, cũng như làm lễ giỗ chạp, thì phải làm theo phép đạo, như xin lễ, cầu hồn ở nhà thờ, chứ không được làm những sự dị đoan (CĐYL, tr. 47-51, CĐDG, tr. 39-42).  


Đối với vua là trung phụ, thì CĐYL chủ trương :’’Ta phải kính đấng làm vua, cùng lấy làm trọng hơn thày dạy dỗ, hơn cha mẹ’’ (tr. 51), và CĐDG chú thích thêm :’’Gọi vua là trung phụ , là cha bậc giữa, vâng lịnh cha bậc trên là Đức Chúa Trời, mà trị nước cũng như quan nguyên soái khâm mạng Hoàng đế, mà trị dân vậy’’ (tr. 37). Vì thế người thứ dân phải làm năm điều để tỏ lòng trung : 1) kính phục vua ; 2) vâng lệnh vua cho hết lòng ; 3) phải đi lính, nộp thuế, và các công tác có ích lợi chung ; 4) giúp đỡ vua cho hết lòng ; 5) phải ở cho hết lòng trung nghĩa, không được làm ngụy. (CĐYL, tr.51-53 ; CĐDG, tr. 37-39).  


Ngoài ra CĐYL còn thêm một điều nữa, riêng cho người có đạo Thiên Chúa: ‘’Kẻ ngoan đạo chẳng những là ở hết lòng ngay cùng vua, nhưng mà lại hằng ngày hằng cầu xin Đức Chúa Lời (Trời) phù hộ thêm sức cho người được trường cửu mà trị nước cho bằng yên lâu dài ; lại cầu cho các quan được mọi sự lành vì đấng làm quan thì thay mặt vua cũng như vua thay mặt Đức Chúa Lời (Trời) mà coi sóc dân sự’’(tr. 53). Đó là điều người có đạo vẫn thực hành khi đọc kinh : ‘’Tôi xin Chúa tôi phù hộ cho đức vua trị nước này và các đấng c&oacu