Lòng tin của Đức Maria: ân huệ tuyệt đỉnh và vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần (2)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 675 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

(tiếp theo)


III. HƯỚNG ĐẾN BÌNH MINH THIÊN KỶ THỨ BA


Lòng tin của Đức Maria để lộ rõ tầm trọng yếu và ý nghĩa đặc biệt của nó đối với Giáo hội và đối với thế giới, khi tín hữu để tâm suy ngẫm về mầu nhiệm Lòng tin của Đức Maria: ân huệ tuyệt đỉnh và vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần (2)này dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, trong giai đoạn Giáo hội chuẩn bị tiến vào năm 2000. Trong tiêu đích này, bài viết sẽ bàn về lòng tin của Đức Maria theo các sắc thái kinh thánh, giáo hộicánh chung.


Lòng tin của Đức Maria là dạng đức tin mang bản chất kinh thánh. Lòng tin ấy lộ hiện lên trong và qua Lời mạc khải của Thiên Chúa. Đem đối chiếu, thì có thể thấy rằng lòng tin của Đức Maria là điểm tuyệt đỉnh của – thậm chí còn vượt trỗi lên trên – lòng tin nơi Abraham.[46] Tuy nhiên, xem xét tước hiệu “Evà mới” của ngài, ắt tín hữu sẽ có thể nắm bắt được trọn vẹn nhất ý nghĩa phản ánh bản chất kinh thánh nơi lòng tin của Đức Maria.[47] John Henry Newman đã cất công thâu thập các bằng chứng có từ những thời sơ khai, liên quan đến kiểu so sánh đối chiếu ấy; đây là kiểu đối sánh mà các Giáo phụ đã dùng đến, là giáo lý mà các ngài đã nhận được từ các thế hệ kitô hữu tiền bối, và tiếp tục chuyển trao lại cho các thế hệ nối gót theo mình.[48]

 

Newman đã kể ra rất nhiều nhân chứng khác nhau sống trong mọi miền xứ – từ Phi châu đến Rôma; từ Paléttin, tiểu Á, đến Gaul; từ Syria, Ai cập, đến Cyprus – nhằm bênh vực cho lập trường nhìn nhận Đức Maria như là “Eva mới.” Dẫn ra trường hợp của thánh Irênê – người được Pôly­cáp hướng dẫn để đến với đức tin – Newman đã tập trung chú ý đến truyền thống Gioan là truyền thống mà vị Giáo phụ này chủ trương bênh vực.[49] Coi Đức Maria như là “Evà mới,” các tác giả thuộc truyền thống này đã chú tâm nêu bật lên nét tương phản giữa lòng tin của Đức Maria với thái độ thiếu lòng tin của Evà, giữa thái độ vâng phục của Đức Maria với thái độ bất tuân phục của Evà, giữa những hoa trái của ân sủng nơi Đức Maria với tình trạng bị tước mất các đặc ân nơi Evà do tội:


“Nếu Evà là nguyên nhân gây ra cảnh diệt vong cho tất cả, thì Maria lại là nguyên nhân đem đến ơn cứu chuộc cho hết thảy...; nếu Evà mở lối làm cho Ađam sa ngã, thì Maria lại dọn đường cho công cuộc đền chuộc của Chúa chúng ta;... nếu Evà đã góp phần vào việc gây ra một sự dữ khủng khiếp, thì Maria đã cộng tác vào việc đưa đến một sự thiện còn vĩ đại hơn nhiều.”[50]


Cách kiểu đối chiếu này được đặt nền tảng trên giáo huấn của thánh Phaolô về Đức Kitô – Ađam mới[51] – và dựa vào tình trạng hiện diện của Đức Maria “trong mầu nhiệm Đức Kitô vào mỗi một bước tiến lên trong cuộc hành trình trần thế của ngài.”[52] Quả thực, bản chất kinh thánh phản ánh vai trò của Đức Maria như là Evà mới, đã lộ hiện hết sức rõ ràng từ thái độ thinh lặng của ngài dưới chân Thánh giá, và làm dội lại “với âm hưởng tuyệt mức hùng hồn” những lời bà Êlidabét đã thốt lên sau cuộc Truyền tin. “Bức tranh toàn cảnh về những ơn phúc do lòng tin ấy, sáng hiện lên và rạng tỏa ra từ Thập giá, tức là từ tâm điểm của mầu nhiệm Cứu chuộc.”[53] Chiều kích kinh thánh về lòng tin của Đức Maria đã trung thành phản ánh được mọi đường nét uyển chuyển khắc họa nên bức tranh mầu nhiệm về cuộc lữ hành của Đức Maria.


Lòng tin của Đức Maria cũng là dạng loại đức tin mang bản chất giáo hội. Mầu nhiệm về bản chất giáo hội nơi đức tin của Đức Maria đặt nền tảng trên sự hiện diện của ngài “trong tư cách là chi thể hoàn toàn có một không hai của Giáo Hội... là mẫu mực, là gương sáng phi thường của Giáo Hội về đức tin và đức ái,... [và] là một người Mẹ rất mực dấu yêu.”[54] Chi thể của Giáo hội, Đức Maria là người đầu tiên đón nhận mọi ân sủng cứu độ mà Đức Giêsu Kitô mang đến cho hết thảy mọi người, thuộc mọi thời đại. Mẫu mực và gương sáng của Giáo hội, Đức Maria là người đầu tiên đã tin nhận và bước theo Chúa trong tư thế là một môn đồ, “một cộng tác viên quảng đại, một nữ tỳ khiêm hạ,” và “như là mẫu gương của mọi nhân đức.” Qua Đức Maria, “Giáo hội đã đạt đến mức toàn thiện của mình, sống trong tình trạng tinh tuyền, không tỳ không vết .”[55]

 

Một cách ưu việt, Đức Maria là mẹ Giáo hội. Địa vị mẫu hệ trên bình diện ân sủng – tức vai trò làm mẹ Đức Kitô toàn thể – của Đức Maria, đâm rễ vào và xuất phát từ địa vị mẫu hệ của ngài đối với Ngôi Lời Nhập thể, Đức Giêsu Kitô. Xét ở một số khía cạnh nào đó, theo kết quả nhắm đến của nó, thì địa vị mẫu hệ song đôi ấy chỉ là một:


          Bởi nhờ ngài,

          Người đã mặc phận người:

          Được sinh hoài và luôn luôn mới,

          Nhưng mầu nhiệm diệu kỳ khôn với,

          Giờ đây, mặc tinh thần, chứ chẳng phải xác phàm

          Ôi, diệu kỳ! Việc chính tay Người làm:

          Tạo giữa chúng ta những làng Nadarét mới,

          Nơi cả sáng, cả trưa, lẫn tối,

          Ngài vẫn tiếp tục thụ thai Người;

          Và tạo ra những hang Bêlem mới,

          Nơi Người tiếp tục được hạ sinh,

          Lúc tối chiều, trưa xế, hay bình minh...

          Đấng đã được sinh ra như vậy,

          Đang hóa thành con người mới tôi đây,

          Làm tôn thêm muôn phần cao vợi,

          Nét con người trong mỗi con người;

          Khi hoàn tất trọn mọi điều như vậy,

          Người làm cho hết thảy mọi người đây 

          Nên con Thiên Chúa, lẫn con Đức Bà.[56]

 

“‘Địa vị làm mẹ’ Giáo hội của Đức Maria, phản ánh và mở rộng địa vị làm mẹ Con Thiên Chúa của ngài.”[57]

 

Tiềm tàng trong cả hai phương diện – phản ánh tính chất giáo hội – nơi địa vị mẫu hệ thần linh của Đức Maria, còn có một chiều kích phổ quát, một thứ chiều kích bao trọn toàn thể nhân loại và phủ trùm lên trên toàn bộ lịch sử loài người. Như thế, rốt cuộc, lòng tin của Đức Maria cũng là một thứ đức tin mang tính chất cánh chung. Liên quan đến tính chất cách chung mà lòng tin của Đức Maria nêu rõ, có ba khía cạnh cần được khảo xét: khía cạnh kitô học, giáo hội học, và nhân loại học.


Khía cạnh kitô học nơi lòng tin mang tính chất cách chung của Đức Maria, lộ hiện từ khoảnh khắc “Đức Maria được dứt khoát mời gọi tiến vào mầu nhiệm của Đức Kitô,” lúc diễn ra biến cố Truyền tin.[58] Phúc phận (blessedness) của Đức Maria cũng chính là dạng ân phúc thiêng liêng được tuôn ban trên hết mọi dân tộc, cho đến tận cùng thời gian, qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập thể của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, lời Thiên Chúa hứa ban ơn cứu độ trở thành hiện thực trong một khoảnh khắc đánh, đã dấu thời viên mãn.[59] Ơn cứu độ được hứa ban cho hết thảy nhân loại, đã được hoàn tất trước nơi Đức Maria, nhờ vào công nghiệp về sau của Con ngài, Chúa Giêsu Kitô. Qua Đức Maria, Đấng Cứu độ nhân loại đã mặc lấy xác phàm, được sinh ra trong thế gian, để thực hiện công trình cứu độ của Người. Sau nữa, khía cạnh kitô học nơi lòng tin mang chiều kích cánh chung của Đức Maria, còn được thể hiện qua tình trạng thông phần và tham dự của ngài vào mầu nhiệm Vượt qua của Con mình.


Xuất hiện tiếp liền sau cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô, khía cạnh giáo hội học – phản ánh chiều kích cánh chung – nơi lòng tin của Đức Maria, giúp tín hữu tiến vào khung cảnh phòng Tiệc ly, vào quãng thời gian giữa cuộc Thăng thiên và Hiện xuống. “Nơi phòng Tiệc ly, cuộc hành trình của Đức Maria và cuộc hành trình đức tin của Giáo hội đã gặp nhau.”[60] Trong sứ mạng Đức Giêsu đã trao phó cho Giáo hội của Người, nơi phòng Tiệc ly, Đức Maria – Trinh Nữ và là Mẹ – hiện diện trước mắt Giáo hội theo những tư thế mới mẻ, như là: “một chứng nhân đặc biệt cho mầu nhiệm Đức Kitô, một mẫu gương về cuộc lữ hành đức tin của toàn thể tín hữu kitô,”[61] một con người có tâm hồn nhiệt thành cầu nguyện.[62] Nhờ thái độ vâng phục của mình, Đức Maria đã trở thành mẫu gương, cho hết thảy mọi thời đại, về đức tin, đức ái, và tình trạng kết hiệp trọn vẹn với Đức Kitô.[63] Trong Đức Maria, Giáo hội hiện diện ở tình trạng toàn thiện như là Hiền thê xinh đẹp lộng lẫy và không tỳ ố của Đức Kitô.[64]

 

Sự hiện diện của Đức Maria trong Giáo hội, vai trò làm Mẹ Giáo hội của ngài, và phần thông dự của ngài vào trong sứ mạng của Giáo hội, đã làm lộ hiện rõ khía cạnh nhân loại học nơi lòng tin mang chiều kích cánh chung của Đức Maria. Công trình cứu độ của Đức Giêsu đã làm cho nhận ra một sứ mạng phổ quát bao trọn toàn thể nhân loại. Trưởng thành lên trong bước đường lữ hành đức tin từ cuộc Truyền tin cho tới biến cố Canvariô, Đức Maria đã dự phần vào sứ mạng mang chiều kích phổ quát ấy. Chính ngài là người phải có mặt để trợ giúp “cho mọi cá nhân, mọi cộng đoàn, cho các quốc gia và dân tộc, cho các thế hệ cùng các thời đại lịch sử con người...”[65] Vai trò của ngài mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt, khi Giáo hội đang khởi sự dấn bước tiến vào Thiên kỷ thứ Ba.


Hình ảnh Đức Maria lộ hiện rõ ràng trước mắt toàn thể cộng đồng nhân loại, khi Giáo hội tiến bước vào năm 2000. Vào thời điểm này, khi Giáo hội đặc biệt kêu cầu Chúa Thánh Thần ban ơn hướng dẫn cho công cuộc chuẩn bị nhắm đón sự kiện ấy, thì vai trò của Đức Maria lại trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Nhờ bóng phủ tỏa rợp của Chúa Thánh Thần, ngài đã thụ thai Ngôi Lời Nhập thể. Được dẫn dắt nhờ sự hiện diện ưu việt và vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần, được tô điểm cho phong phú với những ân sủng có một không hai, được chúc phúc nhờ thái độ đặt trọn niềm tin vào lời truyền tin của sứ thần, Đức Maria đã sống suốt cuộc đời với tâm lòng cởi mở và vâng phục đối với Chúa Thánh Thần. Suốt trong quãng thời gian chuẩn bị tiến vào Thiên kỷ thứ Ba, Giáo hội mời gọi tín hữu chiêm ngắm những hoa trái thiêng liêng đơm kết dồi dào nơi mầu nhiệm về lòng tin của Đức Maria như là ân huệ tuyệt đỉnh và vĩnh cửu Chúa Thánh Thần đã ban cho ngài trong cả cuộc đời. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết tha kêu mời tín hữu kitô để tâm chiêm ngắm và bắt chước Đức Maria,


“trước hết, như là người nữ đã có thái độ ngoan ngoãn vâng nghe tiếng của Thần Khí; như là người nữ biết thinh lặng và để ý lưu tâm; như là người nữ của lòng trông cậy và, hệt như Abraham, là người đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa với “lòng trông cậy dù không còn gì để cậy trông vào” (x. Rm 4, 18). Đức Maria là hình ảnh phản chiếu trọn vẹn niềm trông cậy sống động nơi những người nghèo của Giavê Thiên Chúa, và là một gương mẫu sáng chói của những ai biết đặt trọn tâm hồn mình vào những lời Thiên Chúa hứa.[66]

 

Mầu nhiệm về lòng tin của Đức Maria cũng lộ hiện nổi bật trong một văn đoạn cuối cùng của Kinh Thánh.[67] Đứng trong tư thế chiến thắng, mình khoác mặt trời, được tán dương như là trinh nữ, là mẹ, là môn đồ, là , Đức Maria song song tiến bước cùng với “cuộc mạc khải về kế hoạch Thiên Chúa cứu độ dành cho nhân loại”; ngài đã đi trước Giáo hội để nhờ đó mà cùng hiện diện và đồng hành với Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế tiến vào buổi bình minh của Thiên kỷ thứ Ba và, vượt xa hơn thế nữa, tiến đến đích điểm chung cuộc và cao trọng là ngày Chúa quang lâm.

 

 

Agnes Cunningham, “Mary’s Fai­t­h­: The Supreme, Abiding Gift of the Holy Spirit”,

Communio 25 (Summer 19­9­8)

 Tuấn Anh trình dịch

HTTH 46 (2009), tr. 18-25.


-------------------------

Xem thêm: Lòng tin của Đức Maria: ân huệ tuyệt đỉnh và vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần (1)


Chú thích

[46] Xem chú thích số 23 ở trên.

[47] Xem LG, số 56; RM, số 19.

[48] John Henry Newman, The New Eva (Westminster, Maryland: Newman Press, 1952).

[49] Ibid., 14-22; Newman kể đến thánh Giútxtinô, Téctulianô, thánh Irê­nê, thánh Cyrilô thành Giêrusalem, thánh Épraem Syprô, thánh Êpiphaniô, thánh Giêrônimô, thánh Âugutinô, thánh Phêrô Crysôlôgô, và thánh Fulgentiô thành Ruspe; thánh Baxiliô, thánh Gioan Kim khẩu, và thánh Cyrilô thành Alêxandria; xin cũng xem các trang 95-96 để có một danh sách tham khảo đầy đủ.

[50] Ibid., 16.

[51] Xem Rm 5:12:19.

[52] Xem RM, 19.

[53] Ibid.

[54] Xem LG, số 53.

[55] Ibid., số 65, trưng dẫn Ep 5:27.

[56] Gerard Manley Hopkins, “The Blessed Virgin Compared to the Air We Breathe,” trong Poems and Prose of Gerald Manley Hopkins, W. H. Gardner giới thiệu và chú thích (Baltimore: Penguin Books, 1953), 56.

[57] Xem RM, số 24; trưng dẫn thánh Lêô Cả, Tractatus 26 de natale Domini, 2: CCL 138, 126.

[58] RM, số 8.

[59] Xem Gl 4:4.

[60] Xem RM, số 26.

[61] Ibid., số 27.

[62] Xem ibid., các số: 28, 30, 26.

[63] Xem ibid., số 5.

[64] Xem LG, số 65; Ep 5:27.

[65] Xem RM, số 52.

[66] Xem TM, số 48.

[67] Ibid., số 46; Kh 12.