Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (love và to love) (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 239 | Cật nhập lần cuối: 7/10/2023 3:31:22 PM | RSS

Từ mặc khải thánh danh của Đức Chúa…

Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (love và to love) (1)Khi Môsê hỏi tên của Đức Chúa thì Đức Chúa mặc khải danh của Ngài như sau: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (“I am Who I Am” (1), “Ta là Đấng Ta Là”, “Ta là Ta Là”, Ta là Đấng Hằng Hữu”) (2).

Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Thiên Chúa phán với ông Môsê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (3).

Từ thực tế lịch sử đó trong Thánh kinh, như một chọn lựa để tìm hiểu sâu rộng thêm về một trong những cách thức khả dĩ nhất để có thể tiếp cận và học hiểu Lời Chúa cách hiệu quả và xác thực hơn, bài viết “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (to love)” đã được biên soạn với ít nhiều những đối chiếu về ngôn ngữ.

Theo định hướng khá triết lý như thế, tư duy nhiều “hiện hữu” hơn “sở hữu” (more exsisting than possessing) trong nội hàm ngữ liệu to be nơi các bản văn Thánh kinh là thực chất tự nhiên, siêu nhiên, và cực tốt; cũng vậy, tư duy nhiều “sở hữu” hơn “hiện hữu” (more possessing than exsisting) trong nội hàm ngữ liệu to have nơi các bản văn Thánh kinh là thực chất tự nhiên, siêu nhiên, và cực tốt (4). Cả hai lối tư duy triết lý mà thực tiễn ấy đã gặp nhau một cách cần thiết và hết sức hài hòa trong phạm trù “yêu thương” (loveto love).

Với ý nghĩa của “Ta là Đấng Hiện Hữu”

Thật vậy, không chỉ là Hiện Hữu, Thiên Chúa còn đương nhiên chính là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng Hữu… bởi lẽ, con người có suy tư luôn phải khẳng định rằng phẩm tính tất yếu của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa là tự hữu, hiện hữu, hằng hữu…. Vâng, Thiên Chúa trong giao điểm giữa triết học và thần học phải là thế, trong thần học thuần túy lại càng phải hơn thế! Nghĩa là, mặc khải Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu, Đấng Hiện Hữu, Đấng Hằng Hữu… cũng chính là Đấng Ta Là (“Ta là Đấng Ta Là”, “Ta là Ta Là”). Theo đó, điểm đến khả dĩ của suy tư triết học chắc chắn phải bao gồm ý nghĩa đương nhiên đó. Còn mặc khải trong thần học Ki-tô giáo lại càng chứng thực cho vấn đề đó của triết học đặt ra.

Tuy nhiên, vẫn sẽ mãi là vấn đề bất khả thấu, vấn đề không thể đạt được sự tối đa tuyệt đối, có chăng chỉ là tối đa tương đối… khi con người muốn hiểu mà không bao giờ có thể hiểu hết về Thiên Chúa. Thật vậy, dù chỉ là cái biết thấu đáo tuyệt đối về một vấn đề nào đó, về thánh danh của Thiên Chúa chẳng hạn, thì cũng không bao giờ được. Hữu hạn không bao giờ có thể thẩm thấu như vô hạn. Sẽ luôn là quá đáng khi phải trình bày về Tạo Hóa là Đấng Ta Là (“I am Who I Am”) (5).

Chắc chắn quá lời... khi so với Tạo Hóa
Bởi Đấng “Ta Là” dựng nên cả đất trời (6).
Chắc chắn quá hời... khi so với Tạo Hóa
Ngài là “Tất Cả” tất cả khác phụ tùy
Chắc chắn quá đời... khi so với Tạo Hóa
Chí Thánh Cao Cả... sánh thế nào... phàm nhân! (7)

Và vậy ra, khi Thiên Chúa phán “Ta Có! Ta Là!” thì phải chăng Ngài nói đến “tính sở hữu”, “sự có”, “tính hiện hữu”, “tính tồn hữu” của Ngài và cũng là “sự tự hữu” “sự tự có”, “sự tự hiện hữu, tồn hữu” của chính Ngài. Thế thôi sao: nghĩa là, đã có, đang có, và tồn hữu mãi mãi, bản thể của Ngài độc lập, trọn vẹn, và không bao giờ thay đổi! (8) Vì thế, để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, và đón nhận được phần nào những mặc khải của Thiên Chúa Hằng Hữu thì tư duy hiện hữu, sở hữu… trong phạm trù yêu thương (vì Thiên Chúa chính là tình yêu) phải được xem là rất cần thiết. Sẽ thật tuyệt vời khi cả hai lối tư duy triết lý “biện chứng” (9) và thực tiễn như thế được cùng nhau thể hiện ngữ nghĩa đủ đầy trong nỗ lực diễn tả “tính sở hữu”, “tính hiện hữu”… và cũng là “sự tự hiện hữu, tự tồn hữu” của Thiên Chúa Tình Yêu Xót Thương (Merciful Love) (10).

Vả lại, ngoài Thiên Chúa ra, tất cả các sự thực hữu khác đều là thứ cấp, do Thiên Chúa sáng tạo, cho phép hiện hữu và để cho các thụ tạo ấy được thông phần vào công trình sáng tạo của Ngài. Nghĩa là, với ý nghĩa của “Ta là Đấng Hiện Hữu”, việc mặc khải thánh danh của Đức Chúa… giúp chúng ta định hướng cuộc đời mình, những thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương.

Vâng, đó cũng chính là một số nét đại cương về nội dung và mục đích của bài viết, để chúng ta khi suy nghĩ hãy tích cực, khi làm hãy nỗ lực, khi sống hãy hiện thực bằng những hoạt động bác ái thương yêu: “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)” (11).

Đến nội dung và mục đích…

Khi muốn sống đúng theo thánh ý Chúa, thì một trong những điều cần là người ta phải biết đúng về thánh ý của Chúa. Nếu muốn biết đúng thánh ý Chúa một cách hiệu quả, thì có lẽ một trong những điều cần là người ta phải biết đúng cách tiếp cận và học hiểu Lời Chúa sao cho hiệu quả thật. Và nếu muốn có động lực “tốt và đúng” một cách tự nhiên để có thể hăng hái tiếp cận và học hiểu Lời Chúa cách đúng đắn nhất, hiệu quả nhất thì trước nhất, người ta phải cậy nhờ vào ân sủng Chúa ban; sau đó, lại rất tự nhiên và tiệm tiến, phải nại ra những lý do “nên và phải” đọc Thánh kinh như: Thánh kinh là Lời Chúa đang nói với chúng ta, giúp chúng ta cầu nguyện, khích lệ chúng ta sống đạo, thúc đẩy chúng ta mong muốn được trở thành những nhà truyền giáo nhiệt thành hơn. Theo đó, nhờ tiếp cận và học hiểu Lời Chúa như thế, chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa rõ ràng hơn; nghe được tiếng Chúa rõ ràng hơn, chúng ta lại càng muốn tiếp cận và học hiểu Lời Chúa nhiều hơn… để áp dụng vào đời sống.

Ngay như trong bối cảnh buổi tĩnh tâm linh mục đoàn TGP. Sài Gòn-TP. HCM vừa qua chẳng hạn (05.01.2023)… thì cũng vậy (12). Đi trước là ân sủng Chúa ban. Đi sau là sự tiếp cận, học hiểu, và áp dụng Lời Chúa vào chính đời sống của bản thân mỗi Kitô hữu. Cả hai đều cần thiết để thay đổi, để nâng cấp, để thánh hóa cuộc sống theo hướng tích cực. Đó là một trong những phương pháp độc đáo không thể thiếu vì chính sự hài hòa lợi ích đích thực của ngữ nghĩa văn bản Thánh kinh: “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)”.

Các tham dự viên buổi tĩnh tâm hôm ấy thật dễ dàng nhận ra nhiều đề mục lớn hết sức quan trọng: (1) Thay đổi lối sống / văn hóa (Xem); (2) Triết lý sống của người hiện đại (Xét); (3) Người mục tử thay đổi (Làm). Theo đó, phần “Thay đổi lối sống / văn hóa” đã đặc biệt nhắc đến một nội dung “Con người như một cỗ máy, được nhìn theo phạm trù hiệu năng, thiếu chiều sâu, tư duy theo phạm trù ‘sở hữu’ (to have: tiền, của cải) chứ không phải là ‘hiện hữu’ (to be: phẩm giá)” (13).

Vậy thì, để một lần nữa xác định nội dung và mục đích của việc tiếp cận và học hiểu Lời Chúa với tư duy hiện hữu, sở hữu, yêu thương (to be, to have, to love) trong đời sống Ki-tô hữu, bài viết này đã và đang trình bày đôi chút về những nỗ lực khả dĩ nhất cho những ai muốn tiếp cận và học hiểu Lời Chúa… trong tình yêu xót thương của Ngài.

Đặc biệt, khi so sánh những vấn đề này trong tiếng Việt và tiếng Anh thường xuất hiện nơi các bản văn Thánh kinh, bài viết này còn muốn khởi đi từ chính nội hàm ngữ nghĩa của “hiện hữu” (to be), “sở hữu” (to have), “yêu thương” (to love)… để trong chính đời sống đạo của mình, mỗi Ki-tô hữu lại có thể tìm thấy nguồn cảm hứng tự nhiên lẫn siêu nhiên từ bổn phận phải tiếp cận và học hiểu Lời Chúa với tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (to love).

Đó sẽ là… một trong những phương pháp tiếp cận, học hiểu, và áp dụng Lời Chúa mỗi ngày một tích cực hơn (14). Thật vậy, để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, không chỉ là tư duy “hiện hữu” mà còn có tư duy “sở hữu”; không chỉ là “hiện hữu”, “sở hữu” mà còn là “tình yêu”.

Nghĩa là, trong Thánh kinh, cả hai lối tư duy này đều cần thiết, luôn tương tác bổ sung ý nghĩa cho nhau cách đặc biệt, liều lượng nhiều ít tùy vào từng trường hợp, “hiện hữu” ngay trước Dung nhan lòng Chúa thương xót (Vultus misericordiae) (15) và “sở hữu” ngay trong tình yêu bao la của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (Dives in misericordia) (16).

Tư duy “hiện hữu” (và sở hữu)… (17)

Không chỉ thuần túy như suy tư triết lý kiểu René Descartes: “Tôi tư duy do đó tôi hiện hữu” (Je pense, donc je suis) (18) – theo đó, dòng chảy triết lý có thể sẽ rất “dài dòng”: “Tôi nghi ngờ, nên tôi tư duy, nên tôi tồn tại (Dubito, ergo cogito, ergo sum) – để có thể tiếp cận và học hiểu Lời Chúa theo “nội dung và mục đích…” trình bày ở phần trên, mà còn trước hết, (1) ta nghiệm ra tư duy “hiện hữu” (tồn hữu, hiện có…) và cả tư duy “sở hữu” (chiếm hữu, có…) thuộc phạm trù “yêu thương…” trong loveto love… xuất hiện ngay trong to be là một thực động từ (full verb); và sau là, (2) những tư duy ấy cũng có trong to be là trợ động từ (auxiliary verb).

Với vị thế là trợ động từ, to be trong tư duy “hiện hữu” cũng đã thực sự hiện hữu cùng tư duy “sở hữu” để “yêu thương…” trong ứng dụng thực hành của ngôn ngữ (19), giúp hữu hiệu cho việc thành lập thì (tense), cách (mood), dạng (voice), thể (form) (20).

Vâng, để: (1) Thành lập “thì” (21); (2) Thành lập “dạng thụ động”; (3) Thành lập thể: nghi vấn, phủ định, và tiếp diễn… với chính nội hàm ngữ nghĩa của “hiện hữu” và “sở hữu” qua từng phần một (22), to be được sử dụng như thế thật ý nghĩa theo các kiểu thức nói trên để giúp tiếp cận, học hiểu đúng về Lời Chúa hơn.

Khi to be là thực động từ

Với nghĩa là ở, có mặt…

Trong những trường hợp như thế, to be là nội động từ (intransitive verb) và các cụm từ theo sau đều là các cụm phó từ làm trạng ngữ (adverb phrases). Hãy khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau:

- They took note that these men had been (= had stayed) with Jesus (23). (Họ nhận ra là những người này đã từng ở với Chúa Giêsu.)

đã từng ở (hiện hữu) + đã từng có dịp để ở (sở hữu) … trong yêu thương

- For the last fourteen days, you have been in constant suspense…. (24) (Suốt mười bốn ngày qua, các ông đã bền lòng trông đợi….)

đã bền lòng trông đợi (hiện hữu) + đã từng có dịp để đã bền lòng trông đợi (sở hữu) … trong yêu thương

Before A was born, God is (= exists). (Trước khi có A, Thiên Chúa vẫn hiện hữu [đã có Thiên Chúa hiện hữu].)

vẫn hiện hữu (hiện hữu) + đã có Thiên Chúa hiện hữu (sở hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc there + to be

Trong những trường hợp cấu trúc there + to be như thế, there là phó từ (adverb), hoặc cũng có thể coi là “hư từ” (expletive), làm chủ ngữ giả (formal subject); chủ ngữ thật (real subject) đi sau to be, nội động từ (intransitive verb) (25). Ta hãy khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau:

- There was grain in Egypt (26). (= Grain was in Egypt.) ( thóc lúa ở Ai Cập.) (Thóc lúa ở đó trong Ai Cập.)

Có thóc lúa (sở hữu) + Thóc lúa ở đó (hiện hữu) … trong yêu thương

- There was no crowd with me (27). (= No crowd was with me.) (Không có đám đông “quần chúng” nào với tôi.) (Đám đông “quần chúng” không ở với tôi.)

Không có đám đông “quần chúng” (sở hữu) + Đám đông “quần chúng” không ở (hiện hữu) … trong yêu thương

- There is almost nothing you can offer except solace. (= You can offer almost nothing except solace.) (Hầu như không có để bạn có thể biếu tặng ngoại trừ sự an ủi.) (Bạn hầu như không thể biếu tặng gì ngoại trừ sự an ủi.)

Hầu như không có gì (sở hữu) + Bạn hầu như không thể biếu tặng gì (hiện hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc it’s + complement + real subject

Trong những trường hợp cấu trúc it’s + complement + real subject, it làm chủ ngữ giả (formal subject), chủ ngữ thật (real subject) đi sau to be, nội động từ (intransitive verb). Ta hãy khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau:

- It is not the Roman custom to hand over any man... (28) (= To hand over any man… is not the Roman custom.) (Không có tục lệ Rô-ma giao nộp người….) (Giao nộp người không phải là tục lệ Rô-ma….)

Không có tục lệ (sở hữu) + Giao nộp người không phải là (hiện hữu) … trong yêu thương

- It was impossible for death to keep its hold on him (29). (= To keep its hold on him was impossible for death.) (Sự chết không có thể cầm hãm được Người.) (Sự chết không thể cầm hãm được Người.)

không có thể (sở hữu) + không thể (hiện hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc subject + to be + complement

Trong những trường hợp thuộc cấu trúc subject + to be + complement, to be cũng là nội động từ với tư duy “hiện hữu”, nhưng còn được gọi là động từ liên hệ (link verb) (30), tương tự như các động từ: to feel (cảm thấy), to remain (còn lại), to keep (giữ lại), to grow (tăng trưởng), to get (mắc phải, bị), to become (trở nên), to seem (có vẻ như), to look (tỏ ra), to appear (xuất hiện, hiện ra), to turn (trở nên). Trong các cấu trúc này, tư duy “hiện hữu” là chủ chốt; tư duy “sở hữu” chỉ phảng phất đôi chút:

- He is the stone you builders rejected, which has become the capstone (31). (Người là viên đá thợ xây các ông loại bỏ, đã trở thành đá đỉnh góc.) (Có “Người là viên đá thợ xây...” chứ không phải là không có)

Người là viên đá thợ xây các ông loại bỏ (hiện hữu) + Có “Người là viên đá thợ xây...” (sở hữu) … trong yêu thương

- Then the high priest and all his associates, who were members of the party of the Sadducees, were filled with jealousy (32). (Thế rồi vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ông, những người thuộc bè Xa-đốc, ngập tràn lòng ghen tức.)

(Thế rồi vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ông, những người thuộc bè Xa-đốc, ngập tràn lòng ghen tức.)

vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ôngngập tràn lòng ghen tức (hiện hữu) + những người thuộc bè Xa-đốc (sở hữu) … trong yêu thương

Với những cách sử dụng đặc biệt

Với tư duy “hiện hữu” và “sở hữu”, to be còn được dùng để diễn tả: tình trạng thể chất hoặc tâm trạng (physical or mental condition) (33), tuổi tác (age), kích thước (size), trọng lượng (weight), giá cả (price), thời tiết (weather), thời gian và ngày tháng (time and date). Ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- He is thirty years old. (age) (Anh ấy được ba mươi tuổi rồi.) (Anh ấy ba mươi năm tuổi.) (34)

được (hiện hữu) + (sở hữu) … trong yêu thương

- She has been one-meter seventy-three centimeters tall since 2022. (size) (Cô ấy đã cao được một mét bảy mươi ba từ năm 2022.) (Cô ấy có chiều cao một mét bảy mươi ba từ năm 2022.)

cao được (hiện hữu) + có chiều cao (sở hữu) … trong yêu thương

- It is fine today! (weather) (Trời đẹp ghê hôm nay!) (Hôm nay có thời tiết đẹp!)

Trời đẹp ghê (hiện hữu) + có thời tiết đẹp (sở hữu) … trong yêu thương

Khi to be là trợ động từ

Trong việc thành lập “thì”

Nếu cấu trúc to be + to-infinitive diễn tả: nhiệm vụ (duty), sự cần thiết (necessity), ý định (intention), sự dàn xếp (arrangement), sự thoả thuận (agreement), chỉ thị (instruction), tính khả dĩ (possibility), định mệnh (destiny) thì người xem hoặc nghe khi tiếp cận để học hiểu Lời Chúa cũng phải mang vào mình những tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” để những tâm thế nói trên của “nhiệm vụ, sự cần thiết, ý định, sự dàn xếp, sự thoả thuận, chỉ thị, tính khả dĩ, định mệnh…” cũng diễn tả tính “hiện hữu” và “sở hữu” nào đó của chính cấu trúc to be + to-infinitive muốn diễn tả. Ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- All the believers were to be (intention) together and have (duty) everything in common (35). (Các kẻ tin đều muốn tựu lại cùng nhaubỏ mọi sự làm của chung.) (Các kẻ tin đều có ý muốn tựu lại cùng nhauđem mọi sự bỏ vào làm của chung.)

muốn tựu lại cùng nhau bỏ mọi sự làm của chung (hiện hữu) + có ý muốn tựu lại cùng nhau và đem mọi sự bỏ vào làm của chung (sở hữu) … trong yêu thương

- Therefore my heart is to be (necessity) glad, my tongue to rejoice (necessity) and my body also to live (necessity) in hope (36). (Bởi thế lòng tôi nên sung sướng và lưỡi tôi cần phải vui mừng, cả thân xác tôi cũng cần sống trong hy vọng.) (Bởi thế lòng tôi được sung sướng và lưỡi tôi được vui mừng, cả thân xác tôi cũng được sống trong hy vọng.)

nên sung sướng và lưỡi tôi cần phải vui mừng, cả thân xác tôi cũng cần… (hiện hữu) + được sung sướng và lưỡi tôi được vui mừng, cả thân xác tôi cũng được… (sở hữu) … trong yêu thương

- The night before Herod was to bring (intention) him to trial, Peter was sleeping between two soldiers, bound with two chains, and sentries stood guard at the entrance (37). (Đêm trước ngày Hêrôđê định đưa ngài ra xử, Phêrô bị cùm bởi hai chiếc xiềng xích, đang thiếp ngủ giữa hai tên lính, và quân canh đứng phòng giữ ở lối vào.) (Đêm trước ngày Hêrô-đê có ý định đưa ngài ra xử, Ph-rô bị cùm bởi hai chiếc xiềng xích, đang thiếp ngủ giữa hai tên lính, và quân canh đứng phòng giữ ở lối vào.)

định đưa ngài ra xử… và quân canh đứng phòng giữ… (hiện hữu) + có ý định đưa ngài ra xử… và có quân canh đứng phòng giữ… (sở hữu) … trong yêu thương.

- Some of the disciples from Caesarea accompanied us and brought us to the home of Mnason, where we were to stay (arrangement) (38). (Một số môn đệ từ Caesarea cùng đi với chúng tôi, dẫn và sắp xếp cho chúng tôi đến nhà của Mnason là nơi chúng tôi trú ngụ.) (Một số môn đệ từ Caesarea cùng đi với chúng tôi, dẫn và sắp xếp cho chúng tôi có nơi trú ngụ nơi nhà của Mnason.)

nhà của Mnason là nơi chúng tôi trú ngụ (hiện hữu) + nơi trú ngụ nơi nhà của Mnason (sở hữu) … trong yêu thương

- You are to abstain (instruction) from food sacrificed to idols, from blood, from the meat of strangled animals and from sexual immorality (39). (Anh em phải kiêng cữ đồ cúng thần, máu huyết, thịt ngột và dâm bôn.) (Anh em được dạy phải kiêng cữ đồ cúng thần, máu huyết, thịt ngột và dâm bôn.)

phải kiêng cữ (hiện hữu) + được dạy phải kiêng cữ (sở hữu) … trong yêu thương

Trong việc thành lập “dạng thụ động”

Cũng thật rõ ràng, tất cả các thì ở dạng thụ động (passive voice) đều do trợ động từ to be thuộc phạm trù không chỉ “hiện hữu” mà còn là “sở hữu” giúp tạo nên. Thật vậy, cấu trúc của mệnh đề ở dạng thụ động chính là: chủ ngữ + to be + động tính từ quá khứ (40). Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- For, said Peter, it is written in the book of Psalms, “May his place be deserted….” (41) (Bởi Phêrô nói, sách Thánh vịnh đã viết: “Ước gì nơi ở của nó trở hãy thành hoang vu….”) (Bởi Phê-rô nói, trong sách Thánh vịnh hẳn có viết: “Ước gì nơi ở của nó hãy trở thành hoang vu….”)

đã viết (hiện hữu) + hẳn có viết (sở hữu) … trong yêu thương

- If we are being called to account today for an act of kindness shown to a cripple and are asked how he was healed(42) (Nếu hôm nay người ta gọi chúng tôi đến trả lẽ cho một việc tử tế đã thực hiện cho một người tàn tật, và tra hỏi chúng tôi xem bằng cách nào mà người ấy đã được chữa lành….) (Nếu hôm nay chúng tôi bị mời đến vì một việc tử tế làm cho một người tàn tật, và bị tra hỏi bằng cách nào mà người ấy đã được chữa lành….)

gọi chúng tôi đến trả lẽ cho một việc tử tếtra hỏi chúng tôi… (hiện hữu) + bị mời đến vì một việc tử tếbị tra hỏiđã được chữa lành… (sở hữu) … trong yêu thương

- There you will be told all that you have been assigned to do (43). (Ở đó người ta sẽ bảo cho con biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho con phải làm.) (Ở đó con sẽ được bảo cho biết tất cả những gì con được chỉ định phải làm.)

người ta sẽ bảo cho conThiên Chúa đã chỉ định cho con… (hiện hữu) + được bảo cho biếtđược chỉ định phải làm… (sở hữu) … trong yêu thương

Trong việc thành lập thể nghi vấn, phủ định, tiếp diễn

Trong câu có trợ động từ to be, để thành lập thể (forms): nghi vấn (interrogative), phủ định (negative), tiếp diễn (progressive), công việc phải làm không chỉ thuộc phạm trù “hiện hữu” mà còn là “sở hữu” do liên quan chủ yếu đến chính động từ to be (44). Tuy nhiên, trong các cấu trúc này, tư duy “hiện hữu” là chủ chốt; tư duy “sở hữu” chỉ phảng phất đôi chút. Vì thế, ta thử khám phá nhận định trên trong các thí dụ sau đây:

- Who are you (interrogative), Lord? (45) (Thưa Ngài, Ngài là ai?) (Thưa Ngài, Ngài là ai?)

Ngài là ai (hiện hữu) + (sở hữu) … trong yêu thương

- It is not (negative) for you to know the times or dates the Father has set by His own authority (46). (Biết thời buổi hay ngày tháng Cha đã định do quyền của chính Ngài thì không phải là việc các ngươi.) (Các ngươi không được biết thời buổi hay ngày tháng Cha đã định do quyền của chính Ngài.)

thì không phải là việc các ngươi (hiện hữu) = không được biết (sở hữu) … trong yêu thương

- It is quite right to say that the Church has been led by the Holy Spirit, isn’t it (negative + interrogative: tag question)? (47) (Nói rằng Chúa Thánh Thần vẫn luôn soi dẫn Giáo hội hẳn là quá đúng, phải không nào?) (Hẳn là quá đúng để nói rằng Giáo hội vẫn luôn được Chúa Thánh Thần soi dẫn, phải không nào?)

Chúa Thánh Thần vẫn luôn soi dẫnlà quá đúng, phải không nào (hiện hữu) = vẫn luôn được Chúa Thánh Thần soi dẫn, phải không nào (sở hữu) … trong yêu thương

- On one of these journeys I was going (progressive) to Damascus with the authority and commission of the chief priests (48). (“Dịp thực hiện một trong các cuộc hành trình như thế, tôi đã tới Đa-mát sau khi các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm.) (“Nhân thực hiện một trong các cuộc hành trình đó, tôi đã có dịp tới Đa-mát sau khi được các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm.)

tôi đã tới Đa-mát… (hiện hữu) + đã có dịp tới Đa-mátđược các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm (sở hữu) … trong yêu thương.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng
Trích: Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 134 (Tháng 3 & 4 năm 2023)
Nguồn: hdgmvietnam.com

__________________________

Chú thích:

(1) Exodus 3:14: “God replied to Moses: I am Who I AM. Then he added: This is what you will tell the Israelites: I AM has sent me to you”.

(2) X. Dr. Michael LeFebvre, “I Am Who I Am? The Real Meaning of God’s Name in Exodus” (Feb 15, 2022) (https://hebraicthought.org/meaning-ofgods-name-i-am-exodus/).

(3) Xh 3,13-15.

(4) X. Edward Zalta, “Existence” (2016) trong The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2016 ed.), Metaphysics Research Lab, Stanford University.

(5) Exodus 3:14: “God replied to Moses: I am who I AM. Then he added: This is what you will tell the Israelites: I AM has sent me to you”.

(6) X. Xh 3,12-14 (“I am Who I AM… I AM has sent me to you”)

(7) BHvNB, Sỏi đá vẫn cần có nhau, T2, số 53.

(8) X. Nguyễn Năng, Tình Chúa trung kiên: “ĐK. Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ. Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. PK1. Một ngày nào mà ta chối Ngài, Ngài phải đành lòng mà chối ta. Nhưng dù ta bất tín, dù ta phản bội, Ngài cũng vẫn trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình. PK 2. Người mẹ nào từ bỏ con mình, cạn tình cùng kẻ mình đã sinh. Nhưng dù ai giết chết tình yêu người mẹ, thì Ta vẫn muôn đời, chẳng hề quên kẻ Ta xót thương. PK3. Rồi ngày nào mà ta thất vọng, hãy hồi tưởng từng ngày ruổi rong. Bao tình yêu cháy nóng, kỳ công chất chồng, lòng sẽ vững như đồng, cậy vào ân tình Chúa thắm nồng. PK4. Và ngàn điều lòng không dám mơ, và nghìn điều lòng chẳng dám ngờ, những điều ta bỡ ngỡ, lòng ta sững sờ, Ngài sẽ đoái thi hành, vì Ngài luôn là Chúa tín thành”.

(9) X. Lane D. Pederson, Dialectical Philosophy, First published (06 February 2015): “Dialectical philosophy originates from ancient Greek philosophers such as Plato and Socrates, who used dialectical persuasion to resolve disparate viewpoints. Although dialectics can certainly involve logic, the use of dialectical philosophy in dialectical behavior therapy (DBT) also recognizes personal truths that may not withstand a purely logical analysis but can be understood given the context of one’s internal frame of reference. In DBT, therapists and clients apply dialectical philosophy to bring balance and guidance to the therapeutic alliance, the treatment, and life. The most fundamental dialectic in DBT is validation versus change. A dialectical stance finds what is adaptive in even the most maladaptive behaviors. Most therapists are naturally inclined to nurture clients. Dialectical abstinence means that clients and therapists take an undialectical stance when particular behaviors are so harmful that engaging in them cannot be justified.” (https:// doi.org/10.1002/9781118957882).

(10) X. Anthony Lilles and Dan Burke, Living the Mystery of Merciful Love:30 Days with Thérèse of Lisieux (https://stpaul center.com/an-introduction-livingthe-mystery-of-merciful-lo ).

(11) X. Stacey Laura Lloyd, The Difference Between Being in Love and Loving Someone, According to Experts: A look into the psychology behind love (Updated on 10/19/22), Licensed Mental Health Counselor (https://www.brides.com/whats-the-difference-between-being-in-love-and-love-3976739).

(12) X. Nguyễn Năng, Một khởi đầu mới (TTLM 5-1-2023).

(13) Ibid.

(14) Tham khảo: (1) Lm. PX. Vũ Phan Long OFM (https://www.simonhoadalat.com/hochoi/giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai4.htm); (2) Giêrônimô Nguyễn Văn Nội (https://giaophanphucuong.org/lectio-divina/lectio-divinaphuong-phap-doc-suy-niem-loi-chua-va-cau-nguyen-1031.html); https://augustino.net/phuong-phap-doc-suy-niem-loi-chua-va-cau-nguyen-lectiodivina/); (3) Lm. Bernard Phạm Hữu Quang, PSS, Giải thích Thánh kinh: Lịch sử, phương pháp, thần học, ứng dụng (https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2022-11/diem-sach-giai -thich-thanh-kinh.html).

(15) X. Phanxicô, Tông chiếu Dung nhan Lòng Xót Thương (Misericordiae vultus) (11-4-2015).

(16) X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót (Dives in misericordia) (30-11-1980).

(17) X. BHvNB, Ngữ liệu CIVEL, Tập 1 (TP. HCM: Nxb. Tôn Giáo, 2021), 533-41.

(18) Sử dụng tiếng La-tinh (Cogito, ergo sum) trong tác phẩm của mình, Descartes đã tạo ra một bút tích kỳ bí cho triết học, đặc biệt trong những thập niên 30-40 của thế kỷ XVII (https://diemsach.info/tac-gia-tac-pham/rene-descartes-toitu-duy-do-do-toi-hien-huu)

(19) X. Trường Quốc tế VNU (International School) (ĐHQGHN) Các chương trình đào tạo – Khoa Ngôn ngữ ứng dụng (https://www.is.vnu.edu.vn/gioithieu/khoa-nnud/cac-chuong-trinh-dao-tao-khoa-ngon-ngu-ung-dung/).

(20) Không nhất thiết phải kể vào số này những shall - should, will - would, may - might.

(21) Rõ ràng là tất cả các thì liên tiến (progressive tenses) đều do trợ động từ to be giúp tạo nên. Tuy không hẳn đã như vai trò của to have trong việc thành lập thì, nhưng to be trong kết cấu to be + to-infinitive làm công việc đáng được xếp vào loại này.

(22) Các hình thức khác nhau của động từ to be to be nguyên thể hiện tại (present infinitive), to have been nguyên thể hoàn thành (perfect infinitive), being động tính từ hiện tại (present participle), been động tính từ quá khứ (past participle), having been động tính từ quá khứ hoàn thành (perfect participle), động danh từ (gerund).

(23) Acts 4:13.

(24) X. Acts 27:33.

(25) X. “Cấu trúc there is, there are: ví dụ, cách dùng, bài tập” (https://langmaster.edu.vn/cau-truc-there-is-there-are-vi-du-cach-dung-bai-tap)

(26) X. Acts 7:12.

(27) X. Acts 24:18.

(28) X. Acts 25:16.

(29) X. Acts 2:24.

(30) X. Linking Verbs: Liên động từ trong Tiếng Anh IELTS (https://www.ieltsvietop.vn/blog/linking-verbs-lien-dong-tu/).

(31) Acts 4:11.

(32) Acts 5:17.

(33) Tham khảo: “Any mental or psychological disorder, such as mental retardation, organic brain syndrome, emotional or mental illness, and specific learning disabilities. The term physical or mental impairment includes, but is not limited to, such diseases and conditions as orthopedic, visual, speech and hearing impairments, cerebral palsy, autism, epilepsy, muscular dystrophy, multiple sclerosis, cancer, heart disease, diabetes, Human Immunodeficiency Virus infection, mental retardation, emotional illness, drug addiction (other than addiction caused by current, illegal use of a controlled substance) and alcoholism.” (https://www.law.cornell.edu/de).

(34) Il a trente ans (tiếng Pháp) (avoir trong tiếng Pháp được xem là tương đương với to have trong tiếng Anh).

(35) X. Acts 2:44

(36) X. Acts 2:26

(37) X. Acts 12:6

(38) Acts 21:16

(39) Acts 15:29

(40) X. Tạ, Ngữ pháp tiếng Anh: Động từ (TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Phương Đông, 2007), 208-15.

(41) Acts 1:20.

(42) Acts 4:9.

(43) Acts 22:10

(44) Dù to be là thực động từ (full verb) hay trợ động từ (auxiliary verb), nếu trong câu đã có to be thì việc thành lập thể nghi vấn (interrogative) hay phủ định (negative) trong các loại câu: câu hỏi có-không (yes-no questions), câu hỏi với từ nghi vấn (wh-questions), câu hỏi lựa chọn (alternative questions), câu hỏi láy (tag questions)… luôn luôn do to be đóng vai trò thiết yếu. Nghĩa là, trong câu nghi vấn sẽ có sự hoán chuyển vị trí của to be lên trước chủ ngữ (trừ trường hợp từ nghi vấn đóng vai chủ ngữ); trong câu phủ định not đi ngay sau to be. Thí dụ:

- Lord, are you at this time going to restore the kingdom to Israel? (Acts 1:6) (Lạy Chúa, phải chăng phen này Ngài sẽ khôi phục vương quốc cho Ít-raen?)

- Why shouldn’t I be baptized? (Acts 8:36) (Tại sao tôi lại không chịu thánh tẩy nhỉ?)

- Who is the prophet talking about, himself or someone else? (Acts 8:34) (Vị tiên tri đang nói về ai, chính ông ta hay một người khác?)

- And after it was sold, wasn’t the money at your disposal? (Acts 5:4) (Sau khi nó được bán đi, chẳng lẽ tiền bạc ấy lại không tuỳ thuộc ngươi sử dụng?)

- We are all here, aren’t we? (cf. Acts 16:28) (Tất cả chúng tôi đều còn đây mà, phải không nào?)

(45) Acts 26:15

(46) Acts 1:7.

(47) X. Ta, Mariology, 273, footnote.

(48) Acts 26:12