Một thần học truyền giáo cho hôm nay (9)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 521 | Cật nhập lần cuối: 6/12/2021 9:14:48 PM | RSS

III. Công lý, hoà bình và sự toàn vẹn của tạo thành như là đối thoại ngôn sứ

Một thần học truyền giáo cho hôm nay (9)“Hành động vì công lý và tham gia vào sự biến đổi thế giới đối với chúng ta là chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng, hay nói cách khác, của sứ mạng Hội Thánh là cứu chuộc loài người và giải phóng loài người khỏi mọi tình huống áp bức”.

“Nếu bạn muốn hoà bình, hãy hoạt động cho công lý”.

“Chúng tôi phân biệt hai loại bất công: bất công về kinh tế–chính trị–xã hội... và bất công về môi trường”.

“Vì trái đất là của Chúa, trách nhiệm của Hội Thánh đối với trái đất là thành phần quyết định trong sứ mạng của Hội Thánh”. (82)

Bốn câu trích này chỉ ra hai sự thật quan trọng trong cách hiểu của Giáo Hội hôm nay về truyền giáo. Thứ nhất, các câu trích chỉ ra rằng hoạt động cho công lý trên thế giới là một thành phần cấu tạo của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, có tầm quan trọng ngang hàng với hoạt động làm chứng và rao giảng Tin Mừng và thiết lập các cộng đoàn Kitô để chia sẻ đức tin, tình bạn và việc thờ phượng. Thứ hai, chúng minh định rằng công lý là một khái niệm rộng, bao gồm từ sự giải phóng kinh tế và chính trị tới các quyền cơ bản của con người, tới hoạt động vì hòa bình, dấn thân hoạt động cho sự ổn định và sự bền vững của môi trường. Giống như các ngôn sứ của Kinh thánh Do Thái, và giống như sứ vụ của Đức Giêsu trong Tân ước, sứ mạng của Giáo Hội là hợp tác với Thiên Chúa trong việc kêu gọi mọi người, mọi nơi và mọi lúc, dấn thân cho công lý, hoà bình và sự toàn vẹn của tạo thành.

1. Công lý

Ngược dòng lịch sử, Giáo Hội từng được biết đến nhiều vì hoạt động chăm lo cho những người nghèo và những người bị gạt ra bên lề xã hội, và đây luôn luôn được nhìn như một phần của sự phát triển truyền giáo của Giáo Hội. Trong Tân ước, Thánh Phaolô kêu gọi các Kitô hữu trên khắp vùng Địa Trung Hải đóng góp cho sự an sinh của các Kitô hữu nghèo hổ tại Giáo Hội Giêrusalem (xem Rm 16,24–28; 1 Cr 16, 1; Gl 2, 10); các Kitô hữu trong đế quốc Rôma trở nên nổi tiếng vì chăm lo cho các bệnh nhân trong một số nạn dịch từng cướp đi sinh mạng của rất nhiều người vào các thế kỷ II và III; (83) các tu viện trở nên nổi tiếng như là những nơi tá túc và nương náu trong các thời kỳ đại hoạ của cuộc di dân lớn vào thế kỷ V, VI và VIII; các Kitô hữu như Êlisabét nước Hungrari, Êlidabét nước Bồ Đào Nha, Margarét nước Scotland, Phanxicô Assisi, Gioan Thiên Chúa và Gioan Woolman là những vị từng làm chứng cho sự liên kết bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với đồng loại trong đời sống Kitô giáo. Dù đó là việc chị Maria Nhập Thể thiết lập các trường học tại New France, hay Vinhsơn Phaolô và Louise de Merillac phục vụ những người nghèo tại Pháp, hay Peter Claver chăm lo cho các nô lệ ở vùng duyên hải Colombia, hay Martin de Porres quảng đại giúp đỡ người nghèo ở Lima, Pêru, hay các cố gắng của William Carey nhằm phục vụ việc giáo dục cho các dân nghèo ở Ấn Độ, việc chia sẻ đức tin luôn luôn được niệm như là chia sẻ các nguồn lực với những người nghèo và bị bỏ rơi.

Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XX, mặc dù sự dấn thân phục vụ những người nghèo và bị bỏ rơi vẫn còn tiếp tục được thể hiện trên khắp thế giới và vẫn còn được coi là hết sức có giá trị (ví dụ, trong việc phục vụ đầy nhiệt tình của Albert Schweitzer và mẹ Têrêsa), nhưng lãnh vực dấn thân này đang trải qua điều mà nhà truyền giáo học Eloy Bueno gọi là một “bước nhảy vọt về nhận thức”. (84) Vì một số nhân tố trong sự phát triển của xã hội thế tục và trong nhận thức của các Giáo Hội, người ta ngày càng thấy rõ là việc phục vụ dành cho người nghèo và bị bỏ rơi bằng các công việc bác ái mà thôi thì không đủ. Vì những cách hiểu mới về phẩm giá và sự bình đẳng của con người từng xuất hiện vào thời Khai Sáng, vì những nhận thức mới về các nguyên nhân hệ thống của tình trạng nghèo khổ trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa và Mácxít, vì sự ý thức xã hội ngày càng phát triển, trong các Giáo Hội (như phong trào Phúc âm Xã hội của Rauschenbusch trong Tin lành và một tập hợp lớn các học thuyết xã hội trong Công giáo), và vì sự chuyển dịch trọng tâm của Kitô giáo từ miền Bắc giàu có xuống Miền Nam nghèo khổ, người ta thấy rõ là việc truyền giáo của Giáo Hội không chỉ phải giảm bớt tình trạng đau khổ và bị bỏ rơi của con người, nhưng còn phải bao gồm việc loại trừ hẳn gốc rễ của tình trạng ấy. Không những Giáo Hội phải dấn thân vào các công cuộc tập thể của lòng thương xót qua các việc phục vụ từ thiện, Giáo Hội cũng phải tham gia vào việc phát triển con người, thực hành và thiết lập công lý và cuộc đấu tranh giải phóng con người. Các Giáo Hội Duy Phúc Âm và Thánh Linh có khuynh hướng do dự về phương diện này, vì họ không muốn gây thiệt hại cho bản chất thiêng liêng của việc rao giảng Tin Mừng, nhưng đến thập kỷ 1980, họ cũng nhìn thấy mối liên kết hữu cơ giữa sự Uỷ Nhiệm Lớn (Great Commission) và Giới Luật Lớn (Great Commandment). (85) Hai thực tại này, phái Duy Phúc Âm nói trong một văn kiện quan trọng, liên kết với nhau theo ba cách: như một hậu quả, như một cầu nối, và như một đối tác với việc rao giảng Tin Mừng. (86) Ngày nay tất cả các Giáo Hội đều thấy rõ là các Giáo Hội được kêu gọi để nói với và nói cho những người nghèo và bị bỏ rơi, giúp họ có khả năng nói bằng tiếng nói của chính họ, và sát cánh với họ trong một chọn lựa về tình liên đới và hành động: “Nước Thiên Chúa và công bằng xã hội không thể bị tách rời” (EPCW 66). Hơn nữa, các Giáo Hội hôm nay nhận ra rằng nếu họ muốn giảng và hoạt động cho công lý một cách đáng tin, bản thân họ phải là những cộng đồng trong đó công lý được thực hành và được nhìn thấy rõ ràng.

Vì vậy, trước hết, Giáo Hội hôm nay được kêu gọi tham dự vào khía cạnh của sứ vụ Thiên Chúa là nói với và nói những người nghèo khổ và bị bỏ rơi trên thế giới. (87) Điều mà Giáo Hội nói với những người nghèo khổ và bị bỏ rơi của thế giới (hay ngày nay cũng được gọi là những người bị loại trừ (88)), đó là tin vui rằng Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa của công lý, rằng Thiên Chúa không và sẽ không dung thứ tình trạng bóc lột và Ngài đang hoạt động trên thế giới nhờ Thánh Thần để đem đến một xã hội công bằng và bao dung. Trải dài suốt lịch sử, những kẻ quyền thế không ngừng lợi dụng Thiên Chúa cho những mục đích bất công của chính họ, nhưng truyền thống ngôn sứ trong tôn giáo Israel luôn luôn kháng cự lại khuynh hướng này. Khi Israel bị Ai Cập đàn áp, Thiên Chúa đến cứu dân bằng “bàn tay mạnh và cánh tay uy quyền” (Đnl 11, 2); khi chính dân Israel giàu có áp bức các dân bản xứ nghèo khổ, Thiên Chúa nói những lời mạnh mẽ lên án họ qua ngôn sứ Amos (Am 2,6–8); khi dân Thiên Chúa bị lưu đày, Thiên Chúa nói những lời an ủi và hy vọng qua các ngôn sứ mà chúng ta gọi là Isaia Đệ Nhị và Đệ Tam. Và Thần khí Thiên Chúa được mặc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu, mà “bài giảng khai mào” của Người tại hội đường Nadarét đã dùng những lời của Isaia Đệ Tam để nói lên việc Người đem Tin Mừng đến cho người nghèo, loan báo tự do cho người bị giam cầm, đem ánh sáng đến cho người mù và giải phóng các tù nhân trong một “năm hồng ân” mới, một xã hội mới công bằng và bao dung (xem Lc 4,18–19 và Is 61,1–2). Trong phần tư cuối thế kỷ XX, truyền thống này về Thiên Chúa của công lý đã được tái khám phá bởi thần học giải phóng. Hình ảnh về Thiên Chúa trong thần học này bác bỏ ý tưởng rằng Thiên Chúa đứng về phía “những kẻ có thế lực” được sử dụng làm cơ sở để duy trì tình trạng hiện hữu của các chủ nghĩa kỳ thị giai cấp, giới tính, chủng tộc, áp bức chính trị và kinh tế. Trái lại, một cách triệt để và mãnh liệt, Thiên Chúa đứng về phía những người nghèo, những người bị áp bức, bị loại trừ và bị tước đoạt mọi quyền lợi, và Người đang kêu gọi toàn thể loài người cộng tác vào công trình của Thiên Chúa. Nhà thần học giải phóng Ronaldo Muñoz viết rằng “vị Thiên Chúa mà chúng ta khám phá ra tương phản hẳn với vị Thiên Chúa của sự trừng phạt và sự cam chịu – bây giờ chúng ta nhận ra vị Thiên Chúa này chỉ là sản phẩm của các nhóm thống trị và các thành phần của Giáo Hội liên kết với các nhóm ấy”. (89)

Điều mà Giáo Hội nói người nghèo và bị bỏ rơi là một lời của công lý và giải phóng trong một thế giới dưới sự thống trị của cái mà Thánh Phaolô gọi là các “quyền lực thần thiêng” (x. Ep 6, 12; Cl 2, 15) và cái mà Walter Wink cắt nghĩa không hẳn như là những quyền lực ma quỷ mà là thứ quyền lực vô hình, thường là một sự pha trộn giữa thiện và ác, của các tập đoàn toàn cầu, các chế độ nhà nước, các ý thức hệ khác nhau như chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hay các xu hướng xã hội như hiện tượng toàn cầu hoá. (90) Mặc dù Giáo Hội là một thực thể thiêng liêng, nó cũng là một thực tại xã hội (xem LG 8); vì vậy, Giáo Hội có một sự hiện diện công cộng nào đó, như một cộng đồng địa phương hay một tổ chức khu vực, kể cả ở những phần trên thế giới mà sự hiện diện này xem ra không đáng kể. Giáo Hội phải tham gia quyền lực tới mức nào là tuỳ mỗi cộng đồng phải quyết định, nhưng cần phải có một thời khắc để “vạch trần,” khi nói ra sự thật về tình trạng bất công, và đồng thời một thời khắc để gợi ý xây dựng, khi trình bày các nguyên tắc của Tin Mừng và học thuyết xã hội của Kitô giáo. Bởi vì các “quyền lực thần thiêng” trong thế giới này thường không phải là hoàn toàn xấu (ví dụ, các tập đoàn thường muốn làm điều thiện cũng như tạo lợi nhuận; một số khía cạnh của hiện tượng toàn cầu hoá là tốt và đáng khuyến khích), nên cần phải sử dụng cả sự đối thoại chân thành cũng như sự phê bình chân thật và ngôn sứ. Các ví dụ về việc Giáo Hội nói người nghèo và bị bỏ rơi trong thế giới có thể là các phát biểu chính thức của các giáo hoàng hay giám mục khi giảng dạy về công lý trong Giáo Hội Công giáo, các phát biểu của WCC hay LCWE, hay nhóm các nhà thần học và giới chức Giáo Hội Nam Phi khi họ công bố Kairos Document vào thập kỷ 1980; cũng có nhiều cơ quan của Giáo Hội như Hội Đồng giáo hoàng Chăm Sóc Mục Vụ cho Di Dân của Tòa Thánh Vatican, tổ chức Caritas, hay các nhóm áp lực như Africa Faith Justice Network hay Center of Concern tại Hoa Kỳ. Martin Luther có lần gọi Giáo Hội là “ngôi nhà miệng” (“mouth house”) (91) của Thiên Chúa, nghĩa là cách thức cụ thể mà lời Chúa được nói ra trên thế giới. Việc Giáo Hội dấn thân lên tiếng vì những người nghèo khổ trên thế giới chính là cách thức mà vị Thiên Chúa của công lý được lắng nghe trên thế giới.

Thứ hai, sứ mạng công lý của Giáo Hội là một sứ mạng tạo sức mạnh. Cần nói rằng điều này không có nghĩa là Giáo Hội có quyền lực hơn phải chia sẻ quyền lực của mình cho những Giáo Hội không có hay có ít quyền lực; nói thế có khác gì áp dụng chế độ gia trưởng hay chế độ bảo trợ? Đúng hơn, tạo sức mạnh, như chúng ta hiểu ở đây, có nghĩa là phục vụ việc gây ý thức, hỗ trợ cho người ta tiến tới sự ý thức về quyền lực, tính chủ thể, sức mạnh và khả năng của chính họ. Một cách cơ bản, điều này có nghĩa là mục tiêu trong sự dấn thân của Giáo Hội cho công lý không phải là dừng lại ở tư cách làm người phát ngôn cho người nghèo và bị bỏ rơi, nhưng là hoạt động thế nào để họ khám phá ra tiếng nói của chính họ và nói ra trong nền văn hoá, truyền thống, và tính người của chính họ. Donal Dorr kể về hai chuyến đi Nam Phi trong khuôn khổ một nhóm huấn luyện cho các nhà hoạt động cho Nam Phi. Trong chuyến đi thứ 1 vào năm 1982, Dorr bị chấn động khi nhận thấy tình trạng kinh khủng và rộng khắp của chế độ aparthai ở đây. Ông nghĩ rằng sẽ “rất khó để có một hy vọng thực sự nào rằng có thể đạt được sự giải phóng mà không cần sự can thiệp quân sự đại trà từ bên ngoài”. Tuy nhiên, bảy năm sau, ông cảm nhận rằng tình hình đã thay đổi hoàn toàn. Mặc dù Nelson Mandela chưa được ra tù và tình trạng áp bức chính trị hầu như còn tồi tệ hơn, phần nào “những người từng đấu tranh cho giải phóng bây giờ đã nắm chắc được chiến thắng. Mọi người đều thấy rõ rằng việc chính quyền áp bức sẽ đầu hàng chỉ còn là vấn đề thời gian và nước ‘Nam Phi mới’ sẽ ra đời”. (92) Khi người dân trở nên chắc chắn hơn về quyền lực của chính họ, về quyền có công lý, và cơ bản hơn, về sự tốt lành và phẩm giá con người của chính họ, thì kết quả cuộc đấu tranh giành công lý đã được bảo đảm – thực ra, một cách nào đó, cuộc đấu tranh này đã đạt được thắng lợi rồi.

Thứ ba, Giáo Hội được gọi sống với người nghèo bằng một sự chọn lựa vừa liên đới vừa thực hành, được gọi là “chọn lựa ưu tiên vì người nghèo”. Một số người đã phản đối ý tưởng này, họ cho rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người như nhau, vì vậy Giáo Hội cũng phải làm như thế, nhưng những người ủng hộ sự chọn lựa vì người nghèo thì nhấn mạnh rằng nó “biểu lộ tính phổ quát của bản chất và sứ mạng của Giáo Hội, chứ không phải là một dấu hiệu của chủ nghĩa địa phương và bè phái”. (93) Nói khác đi, để bảo đảm rằng tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa vươn ra tới mọi dân tộc, cần phải có một sự dấn thân đặc biệt cho những người nghèo và bị bỏ rơi. Không có một sự dấn thân hữu ý như thế, Giáo Hội sẽ dễ làm ngơ hay coi thường tiếng kêu của người nghèo, thành phần thường không được lắng nghe và nhìn thấy. Một kế hoạch khẳng định – hành động như thế của Giáo Hội bảo đảm rằng những người thiếu thốn nhất sẽ nhận được sự chú ý mà họ đáng được.

Như Donal Dorr cắt nghĩa, chọn lựa vì người nghèo đòi hỏi cả sự liên đới lẫn sự phân tích/hành động (thường gọi đơn giản là thực hành). (94) Liên đới với người nghèo và người bị bỏ rơi bao gồm việc chia sẻ nếp sống của người nghèo bao có thể trong các hoàn cảnh cụ thể. Người Kitô hữu được kêu gọi sống một “nếp sống đơn sơ,” (95) sống với những gì chúng ta cần hơn là những gì chúng ta muốn, tránh chủ nghĩa tiêu thụ trống rỗng đang xâm nhập mọi ngóc ngách của thế giới toàn cầu hoá hôm nay. Người Kitô hữu được kêu gọi lắng nghe tiếng nói của những người nghèo và bị bỏ rơi, ủng hộ các mối quan tâm của họ, đóng góp vào các hành động giúp thăng tiến sự phát triển của họ, vun trồng một linh đạo của sự kiên nhẫn, ví dụ chấp nhận xếp hàng chờ (là điều khiến cho người nghèo mất rất nhiều thời giờ). Trên hết, liên đới bao gồm việc bỏ đi nếp sống của những người quyền thế và thay vào đó là ngày càng cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa. “Đó là từ bỏ mọi kiểu thành công chính trị theo nghĩa thông thường, và thậm chí định nghĩa lại một cách triệt để chính khái niệm về thành công. Đó là một quyết định tìm thấy niềm vui và sự hoàn thành bằng những cách không thể hiểu được theo nghĩa thông thường”. (96) Nhưng liên đới mà thôi thì không đủ cho Giáo Hội, hay ít là cho một số thành viên của Giáo Hội tích cực dấn thân cho sứ mạng công lý của Giáo Hội. Chọn lựa vì người nghèo bao gồm một sự phân tích cùng với người nghèo về các nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo khổ hay bị loại trừ của họ, và hình thành các kế hoạch hành động để kháng cự lại hay khắc phục các nguyên nhân ấy. Vì vậy điều này đưa chúng ta trở lại với sự phân tích và suy tư trong một chu kỳ không hề kết thúc giữa hành động và suy tư. Khía cạnh thực hành của sự chọn lựa vì người nghèo phải được thực hiện chủ yếu bởi chính những người nghèo và bị bỏ rơi. “Có nghĩa là,” Dorr viết, “những ai đã chọn lựa liên đới với người nghèo thường phải ‹dừng lại.› Và khi họ thực sự phải can thiệp, họ phải khuyến khích hay tạo điều kiện để chính những người yếu thế này diễn tả kinh nghiệm của chính họ và lập kế hoạch hành động thực tế cho chính họ”. (97)

Nhưng tính khả tín của Giáo Hội trong sứ mạng công lý của mình tất yếu lệ thuộc việc chính Giáo Hội phải sống công lý một cách đích thực. Như Thượng Hội đồng Giám mục 1971 nhìn nhận: “Trong khi Giáo Hội có nghĩa vụ làm chứng cho công lý... bất cứ ai dám nói với người khác về công bằng thì trước tiên phải sống công bằng trước mắt người ta. Vì vậy chúng ta phải xét mình về các cách hành động và chiếm hữu và nếp sống hiện có trong chính Giáo Hội”. (98) Do đó, trong một ít đoạn vắn, Thượng Hội đồng phác hoạ ra một số cách thức mà Giáo Hội được kêu gọi để chính mình được phúc âm hoá ad intra để có thể trở nên khả tín hơn khi phúc âm hoá ad extra. Các quyền con người phải được duy trì trong Giáo Hội; những ai làm việc trong Giáo Hội, gồm cả các linh mục và tu sĩ, phải được trả lương xứng đáng và được hưởng “chế độ an sinh xã hội theo quy định tại vùng của họ”. Giáo dân phải được chia sẻ việc quản trị tài sản của Giáo Hội, và “phụ nữ phải được chia sẻ trách nhiệm và sự tham dự của họ,” không chỉ trong xã hội mà cả trong Giáo Hội. Giáo Hội phải bảo đảm quyền tự do tư tưởng, và khi một người bị kiện cáo trong Giáo Hội, đương sự có quyền biết người tố cáo mình và có quyền bào chữa thích hợp. Mọi thành viên Giáo Hội – giáo sĩ và giáo dân – phải có quyền có tiếng nói trong các thủ tục làm quyết định trong Giáo Hội. Như Tuyên ngôn Manila 1989 nói, “Theo ý định của Thiên Chúa, Giáo Hội phải là một dấu chỉ về Nước của Người (Lc 12, 32), nghĩa là một dấu chỉ về hình ảnh cộng đồng loài người như thế nào khi nó được đặt dưới triều đại công chính và hoà bình của Người (Rm 14, 17)”. (99) Thế nên nền công lý mà Giáo Hội sống nơi chính mình là một bước đầu tiên và cơ bản hướng tới việc rao giảng và làm chứng hiệu quả về sự công chính của Thiên Chúa giữa mọi dân tộc. (100)

2. Hoà bình

Sứ mạng công lý của Giáo Hội mật thiết gắn liền với sứ mạng của Giáo Hội trong việc vun trồng và duy trì hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Sự thất vọng và giận dữ trước những tình trạng bất công liên tục – như chúng ta chứng kiến thời nay tại Chechnya, Kosovo, Chiapas và Palestin – là nguyên nhân gây ra nhiều bạo lực trên thế giới, và sự tham lam của các cường quốc trong việc một cách bất công là nguyên nhân gây ra các cuộc chiến lớn trong lịch sử. Ngày nay, với sự phát triển ồ ạt các vũ khí nguyên tử, không chỉ giữa các cường quốc trên thế giới, mà cả giữa các nước trung bình như Ấn Độ, Pháp, Pakistan và Israel, chính cuộc chiến toàn cầu là một sự bất công không thể tưởng tượng nổi, vì nó có thể cướp mất sinh mạng hàng chục triệu người và huỷ hoại môi trường sống bằng những cách khó có thể tưởng tượng. Như các giám mục Mỹ diễn tả trong thư mục vụ năm 1983, The Challenge of Peace, bản thân lá thư này đã là một cách tuyệt vời để Giáo Hội thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng và thách thức nước Mỹ hoạt động cho hòa bình và công lý:

Cuộc khủng hoảng chúng ta đang nói đến phát xuất từ sự kiện này: chiến tranh hạt nhân đe dọa sự tồn tại của hành tinh chúng ta; đây là mối đe dọa lớn chưa từng thấy trên thế giới. Việc nhân loại phải sống dưới mối đe doạ này là điều không thể chịu đựng nổi, cũng không phải là điều cần thiết. Nhưng để loại trừ mối đe doạ này, cần có một nỗ lực lớn của trí tuệ, sự dũng cảm và niềm tin. Như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói tại Hiroshima: “Từ bây giờ trở đi, chỉ có một sự chọn lựa có ý thức và một chính sách kiên quyết thì nhân loại mới có thể sống sót”. (101)

Điều đầu tiên mà Giáo Hội có thể làm để cổ vũ hoà bình là giúp các dân tộc trên thế giới làm sự “chọn lựa có ý thức” ấy và giúp phát triển “chính sách kiên quyết” ấy. Mặc dù chắc chắn rằng trong quá khứ Giáo Hội từng dung dưỡng cho chiến tranh – giảng các cuộc thánh chiến, chúc lành cho các đoàn quân và tàu chiến – nhưng Giáo Hội cũng đã có một truyền thống mạnh mẽ kêu gọi hòa bình. Hoà bình, shalom, là ước mơ của Kinh thánh (xem, ví dụ, Is 2,2–5; 9,5–6; 48, 18; Ed 37, 26; Kh 21). Bản thân Đức Giêsu là một con người hoà bình (ví dụ, xem Mt 5,21–26, 38–48; 26, 52), và vương triều Thiên Chúa mà Ngài rao giảng là sự hoàn thành niềm hi vọng cánh chung của Israel về hoà bình (xem Lc 4,18–19; Mt 11, 2–6; Is 60,1–11). Trong suốt 200 năm, cộng đoàn Kitô giáo sơ khởi đã luôn chống lại việc gia nhập quân đội Rôma, nhưng cả khi người Kitô hữu chịu đi lính, vẫn có truyền thống một số quân nhân từ chối chiến đấu vì những lý do bất công. (102) Trong thời kỳ thập tự chinh, Phanxicô Assisi chắc chắn đã chứng tỏ mình là một công cụ hoà bình của Thiên Chúa, giống như nhiều Kitô hữu khác từ George Fox và John Woolman cho đến Dorothy Day và Peter Maurin. Như Andrew Kirk chỉ ra, thậm chí lý thuyết của Augustinô về chiến tranh chính đáng thực ra là một lý thuyết về chiến tranh được biện minh; lý thuyết về chiến tranh công bằng “không phải là một cố gắng nhằm làm nhẹ bớt việc sử dụng chung chung các loại bạo lực gây chết người, nhưng nhằm chứng tỏ rằng chiến tranh trong đa số các trường hợp là không thể biện minh”. (103) Cả Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II đều đã từng có những sứ điệp quan trọng về hoà bình vào ngày Hoà bình Thế giới, mùng 1 tháng 1 hằng năm. Những lời dạy như thế của các Giáo Hội (và các cố gắng vận động hành lang của các nhóm Hoa Kỳ như nhóm Conference of Major Superiors of Men (Hội nghị các Bề trên Tổng quyền của các Dòng nam) và nhóm Leadership Conference of Women Religious (Hội nghị Lãnh đạo của các Nữ tu) cần được tiếp tục, cả khi có vẻ đó chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc. Nó là một sự nhắc nhở thường xuyên và quan trọng rằng bạo lực và chiến tranh không bao giờ là câu trả lời có ích cho loài người về lâu về dài.

Thứ hai, như chúng tôi đã nhấn mạnh ở trên khi nhắc đến Fox, Woolman, Day và Maurin, Giáo Hội có thể hỗ trợ các cố gắng của các ngôn sứ hòa bình của mình. Thái độ chủ hoà luôn luôn là một lập trường thiểu số trong Giáo Hội, nhưng nó luôn luôn hiện hữu, và chúng ta cần lắng nghe các lời nói ngôn sứ và phản ứng trước chứng tá ngôn sứ với sự cởi mở và chân thành. Các cố gắng của Phong trào Công nhân Công giáo và nhóm Hữu Nghị Hoà Giải, phong trào đòi đóng cửa Trường học của người bản địa châu Mỹ tại Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, chứng tá của truyền thống Mennonite, và các tiếng nói của những người như Daniel Berrigan và Michael Baxter là những khía cạnh quan trọng, dù luôn luôn gây tranh cãi, của sứ mạng Giáo Hội vì hòa bình.

Thứ ba, người Kitô hữu có thể tham gia vào chương trình bốn điểm được phác hoạ bởi các giám mục Hoa Kỳ trong lá thư mục vụ năm 1983. Thứ nhất, người Kitô hữu có thể phát triển và tham dự các chương trình giáo dục nhằm đào luyện lương tâm họ nhạy cảm hơn trước các vấn đề về bạo lực, chiến tranh và hòa bình. Thứ hai, họ có thể phát triển một sự “kính trọng sự sống” tương tự như thuyết hành vi đạo đức gọi là “chiếc áo không đường may” được cắt nghĩa bởi cố hồng y Joseph Bernardin của Chicago. Thứ ba, các giám mục xin những người Công giáo, “các Kitô hữu khác và mọi người thành tâm thiện ý” hãy tham gia “tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình... trong bản thân chúng ta, trong gia đình và cộng đồng chúng ta, trong đất nước chúng ta, và trong thế giới”. Thứ tư, các giám mục nhìn nhận rằng “kinh nguyện tự nó không đầy đủ nếu thiếu lòng sám hối ăn năn,” vì thế, dựa trên một truyền thống Công giáo lâu đời, họ đề nghị rằng “tất cả các ngày thứ Sáu trong tuần phải là một ngày được dành đặc biệt cho việc cầu nguyện, sám hối và làm phúc bố thí vì hoà bình”. (104)

Sau cùng, vì sự căng thẳng trong nội bộ và giữa các tôn giáo với nhau là nguồn gây ra biết bao bạo lực trên thế giới (như tại Bắc Ailen, Sri Lanka, Inđônêxia, Israel và Palestin), việc Giáo Hội dấn thân cho đối thoại liên tôn – đề tài chúng tôi sẽ trình bày thêm chi tiết ở đoạn tiếp theo trong chương này – có thể là một cách để tăng thêm sự hiểu biết và giảm bớt sự nghi kỵ giữa những người theo các niềm tin khác nhau. Khi các tôn giáo cùng tham gia vào những cố gắng chung cho công lý và giải phóng nói riêng (đối thoại bằng hành động), những người có đức tin sẽ có thể hiểu ra rằng họ không phải là những kẻ thù của nhau nhưng họ có chung một kẻ thù là các “quyền năng thượng giới” mà nếu không bị ngăn chặn, chúng có thể tạo ra một bầu khí bất công và duy trì làn sóng bạo động. Nếu Philip Jenkins đúng khi tiên báo rằng Kitô giáo trong tương lai sẽ có khuynh hướng hiếu chiến hơn, đặc biệt tại châu Phi và châu Á, (105) chúng tôi tin rằng một trong những thách thức lớn nhất đối với việc truyền giáo của Kitô giáo sẽ là giúp người ta hiểu rằng Tin Mừng đặt nền tảng trong shalom (hoà bình) của Thiên Chúa, lời kêu gọi bất bạo động của Đức Giêsu và viễn kiến của Kinh thánh về trời mới đất mới. Giáo Hội chỉ có thể đáp ứng thách thức ấy nếu Giáo Hội cống hiến sứ điệp ngôn sứ của mình cho thế giới trong một tinh thần đối thoại chân chính.

3. Sự toàn vẹn của tạo thành

Mặc dù từ lâu người ta đã nhận ra rằng các vấn đề về sinh thái được gắn kết chặt chẽ với các vấn đề về công lý và hoà bình, (106) nhưng người ta đã không có nhiều suy tư để xem việc bảo tồn tính toàn vẹn của tạo thành được gắn kết như thế nào với sứ mạng của Giáo Hội. (107) Tuy nhiên mối liên kết này là chuyện đương nhiên không phải bàn cãi. Viễn kiến cứu rỗi của Kitô giáo là về trời mới và đất mới (Is 66, 22; Kh 21, 1). Các tội bất công và tham lam, Walter Brueggemann viết, không chỉ xâm phạm con người, mà còn xâm phạm trái đất và mọi tạo vật trên trái đất. (108) Vì vậy, lời kêu gọi của Giáo Hội về sự sám hối và viễn kiến mới là một lời kêu gọi về trách nhiệm sinh thái. Theo lời của tiểu thuyết gia Rudy Wiebe, “Bạn sám hối, không phải bằng việc cảm thấy đau buồn, nhưng bằng việc suy nghĩ khác đi”. (109) Truyền giáo làm chứng, rao giảng, cử hành và hoạt động vì một lối suy nghĩ mới và cách nhìn mới về con người, các tạo vật của trái đất và chính vũ trụ thụ tạo. Các vị ngôn sứ như Phanxicô Assisi, Hildegard Bingen, John Woolman và Pierre Teilhard de Chardin đều đã chỉ về sự thánh thiện của toàn thể tạo thành; việc cấp bách là Giáo Hội phải đi theo vết chân các vị ngôn sứ này.

Trong một trong số ít ỏi các suy tư kiên trì của ông về truyền giáo và sự toàn vẹn của tạo thành, Andrew Kirk cống hiến một số đề nghị về cách mà Giáo Hội có thể thực sự sống sứ mạng rao giảng, phục vụ và làm chứng cho sự công bằng sinh thái. Các đề nghị của chúng tôi ở đây được gợi hứng từ đề nghị của ông. (110) Thứ nhất, bản thân các Kitô hữu cần phải sống như thế nào để có thể thuyết phục những người khác chấp nhận một lối sống sử dụng ít nguồn tài nguyên của thế giới hơn, đặc biệt các loại tài nguyên lấy mất cơ hội của các dân tộc thuộc các xã hội không giàu có như các xã hội của phương Tây. Cam kết sử dụng chất thải tái chế, ít sử dụng xe ô tô hơn, sử dụng các loại xe máy tiết kiệm nhiên liệu, sử dụng các nguồn năng lượng một cách khôn ngoan và tiết kiệm, đó là các việc thực hành mà người Kitô hữu có thể cổ vũ và loan truyền. Thêm vào đó, các Giáo Hội và các tổ chức của Giáo Hội như trường học, bệnh viện, và chủng viện có thể ủng hộ các cố gắng xây dựng và tái tạo các công trình xây dựng theo hướng thân thiện với môi trường. Thứ hai, cá nhân các Kitô hữu và các tổ chức của Giáo Hội có thể ủng hộ và cổ vũ việc xây dựng các đạo luật giúp cải thiện tính bền vững của môi trường. Việc chuyển các giàn khoan dầu tới các vùng đất hoang tại Hoa Kỳ hay các kế hoạch khai thác gỗ tại các rừng Philippines cần có sự đánh giá kỹ lưỡng và thậm chí sự phản đối mạnh. Thứ ba, Giáo Hội và cá nhân các Kitô hữu có thể ủng hộ và cổ vũ sự phát triển ngành nông nghiệp hữu cơ. Tại Hoa Kỳ hiện nay, các sản phẩm hữu cơ có khuynh hướng đắt đỏ hơn các sản phẩm nông nghiệp sử dụng phân bón hoá học, nhưng lý do là vì người Mỹ không quen mua các sản phẩm được sản xuất bằng quy trình tự nhiên. Trái lại, tại châu Âu, các sản phẩm hữu cơ được bán với giá rẻ hơn, một phần là do ảnh hưởng của các Đảng Xanh và sự ý thức cao hơn về môi trường sinh thái. Điều có vẻ như là một chuyện nhỏ, và trong một số trường hợp có vẻ như là một sự hi sinh nhỏ, thực ra lại là một bước quan trọng trong việc bảo tồn và đổi mới trái đất. Sau cùng, sứ mạng của Kitô giáo trong việc bảo tồn tạo thành của Thiên Chúa được biểu lộ trong việc ủng hộ mọi thứ sáng kiến để phát triển hay bảo vệ các vùng hoang dã, các công viên quốc gia và các cảnh quan tự nhiên khác. Thiên Chúa đã ban cho toàn thể loài người những kỳ quan hùng vĩ của thiên nhiên cùng với dồi dào các loài thực vật và động vật, và loài người được kêu gọi không chỉ hưởng thụ đầy đủ các ân huệ này, mà còn phải bảo đảm làm cho tạo thành của Thiên Chúa luôn giữ được sự tươi đẹp cho các thế hệ tương lai.

Đôi khi người ta lý luận rằng trách nhiệm phục vụ sinh thái chỉ là một mối quan tâm của các quốc gia thuộc thế giới thứ nhất, là những nước có dư thừa tiền của để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ. Còn các nước tại châu Á, châu Phi hay châu Mỹ Latinh có thể cần phải chặt cây để lấy gỗ và săn bắt các động vật quý hiếm để có kế sinh tồn. Tuy đúng là như thế, nhưng cũng phải nhấn mạnh rằng các dân tộc thuộc thế giới thứ ba đã nhận ra những nguy cơ ngắn hạn và dài hạn của việc khai thác thế giới tự nhiên một cách bừa bãi. Các giám mục Công giáo tại châu Phi, châu Mỹ Latinh và châu Á đã nhận ra tầm quan trọng của việc cổ vũ sự công bằng và trách nhiệm về môi trường đối với các vùng của họ trên thế giới. (111) Trong một cuốn sách nổi tiếng, nhà truyền giáo học và hoạt động môi trường người Zimbabuê Marthinus Daneel kể lại câu chuyện cảm động về “cuộc chiến của cây cối” chống lại tình trạng môi trường của Zimbabuê bị tàn phá trong các thập kỷ vừa qua, trong một cố gắng hợp tác giữa những người theo tín ngưỡng truyền thống Shona và một số Giáo Hội độc lập châu Phi (AIC) tại địa phương. Trong nhiều năm, các tín đồ của tôn giáo địa phương này đã trồng hơn một triệu cây mỗi năm để chống lại hậu quả của cuộc chiến giải phóng kéo dài và sự chuyển dịch dân số. Daneel viết ra câu truyện này khi ông đứng trước cảnh hạn hán và phá rừng tại vùng đất quê hương thời thơ ấu của ông,

Chủ nghĩa châu Phi toàn diện đã trở thành khoa diễn giải cho sự tái định hướng thần học. Tôi nghĩ việc cứu rỗi các linh hồn là quan trọng. Nhưng không bao giờ được hi sinh sự cứu rỗi của toàn thể tạo thành. Trong hoàn cảnh của tôi, sự hoán cải sẽ có rất ít ý nghĩa nếu nó không chuyển thành sự phục vụ đầy đủ cho môi trường... Xem ra khái niệm của Kinh thánh về trời mới đất mới không còn chỉ đơn thuần là một nhiệm cục mới mà Thiên Chúa đưa vào thế giới, mà là một thách thức phải được thể hiện ngay ở đời này. (112)

Với giọng điệu bức bách, Daneel cho thấy sự đối thoại liên tôn kết hợp với hoạt động vì môi trường (mà chúng tôi gọi là đối thoại bằng hành động) là một việc thực hành mạnh mẽ của hoạt động truyền giáo Kitô đích thực. Mối quan tâm Kitô giáo đối với môi trường làm sáng tỏ linh đạo của tôn giáo Shona; các viễn kiến của tôn giáo truyền thống đối với môi trường thúc đẩy đức tin và hành động của Kitô giáo tới những bình diện mới và sâu hơn của sự dấn thân cho Đức Kitô, người giữ gìn trái đất.

Để kết luận đoạn này, chúng ta cần suy tư vắn tắt về cách thức phải hiểu thế nào về sự dấn thân cho công lý, hoà bình và sự toàn vẹn của tạo dựng theo nghĩa là đối thoại ngôn sứ và chỉ cho thấy nó soi sáng thế nào cho các hằng tố truyền giáo. Điều chắc chắn được thấy rõ là chiều kích ngôn sứ của truyền giáo có ý nghĩa quan trọng nhất ở đây; dấn thân cho công lý, hoà bình và sự toàn vẹn sinh thái đòi hỏi nếp sống ngôn sứ, lời nói ngôn sứ và hành động ngôn sứ trong tư cách cá nhân, cộng đoàn và thể chế. Các vị ngôn sứ lớn về hoà bình, công lý và sinh thái nằm trong số hàng ngàn vị tử đạo của thời đại chúng ta – Martin Luther King, Jr., Oscar Romero, Chico Mendes, Steve Biko, Felix và Mary Barreda, và rất nhiều vị khác nữa. Nhưng các ngôn sứ đích thực không được gợi hứng bởi sự giận dữ nhưng bởi tình yêu, và vì thế việc làm chứng ngôn sứ, lời nói và hành động ngôn sứ cần phải được đặt nền trên tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Họ cần tìm cách hiểu các động cơ của con người, để thuyết phục họ bằng các sự kiện. Họ không bao giờ – hay ít ra chỉ trong các trường hợp cực đoan – có thể sử dụng bạo lực. Họ cần thiết lập các mối quan hệ đích thực với những con người vốn thường là những con tốt bất đắc dĩ trong tay những tập đoàn toàn cầu và những nhà chính trị tham lam. Cần phải đối phó với sự ác, nhưng người Kitô hữu cần biết lắng nghe, học hỏi và suy nghĩ để biết cái ác thực sự nằm ở chỗ nào.

“Bước nhảy vọt nhận thức” theo mô tả của Eloy Bueno đã rọi ánh sáng mới vào bản chất của sự cứu rỗi. Loài người được Thiên Chúa kêu gọi đến với sự toàn diện của con người để bao gồm các khả thể của sự tham dự vào một xã hội công bằng và hoà bình, không chỉ theo nghĩa là vắng bóng bạo lực nhưng cũng là vắng bóng các nguyên nhân gây ra bất công. Sự xuất hiện của ý thức về sinh thái trong ba thập kỷ qua đã mở rộng khái niệm về cứu rỗi để bao gồm không chỉ sự an sinh của con người, mà còn cả sự an sinh của toàn thể tạo thành. Tính toàn diện thiêng liêng mà Tin Mừng đem đến không phải là một sự toàn diện phi xác thể hay phi vật chất nhưng phản ánh tình yêu của một vị Thiên Chúa muốn diễn tả căn tính thần linh của Người trong sự liên đới hoàn toàn với tất cả tạo thành. Vì vậy khoa nhân học là yếu tố trung tâm của sứ mạng này; thực ra, nó là sự xuất hiện của chủ thể trong tư duy của thời Khai Sáng vốn đã gieo mầm cho các khái niệm về phẩm giá con người và các “quyền bất khả nhượng” đối với “sự sống, tự do và sự theo đuổi hạnh phúc,” như phát biểu của Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, và là cơ sở của sự ý thức xã hội của các Giáo Hội, dựa trên các lời dạy của Kinh thánh. Nhưng một lần nữa, cuộc cách mạng sinh thái đã đẩy con người “ra khỏi tâm điểm” trong tư tưởng triết học, chính trị và thần học, và điều này cũng thấy được vang vọng khi chúng ta đọc lại Kinh thánh. Chúng ta phải theo đuổi công lý và hoà bình trên thế giới với một sự ý thức về tính tương liên của mọi sự. Sau cùng, một sự dấn thân cho hạnh phúc của con người và vũ trụ chỉ ra một khoa cánh chung học vừa đã được thể hiện vừa chưa được đạt được điểm hoàn thành chung cuộc. Sự hoàn thành cánh chung mà là một “cái bánh trên trời khi bạn chết” trong tương lai thì không thể đáp ứng được sứ điệp của Kinh thánh Israel và các lời dạy của Đức Giêsu. Một thế giới công bằng, hoà bình và toàn vẹn của tạo thành là điều quan trọng ngay bây giờ, vì tương lai trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa chính là những gì chúng ta đang tạo ra bây giờ. Nhưng mặt khác, chỉ một mình Thiên Chúa của Đức Giêsu là Đấng sẽ khai trương thời đại mới nhờ Thánh Thần. Vương quốc của “sự thật và sự sống... sự thánh thiện và ân sủng... công lý, tình thương và hoà bình” (113) là vương quốc của Thiên Chúa.

Tác giả: Stephen B. Bevans, SVD và Roger P. Schroder
Chuyển ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 93 (Tháng 3 & 4 năm 2021)
Nguồn: hdgmvietnam.com

____________________

Chú thích:

(82) Thượng Hội đồng Giám mục, “Công Bằng trên Thế Giới” (1971). “Giới thiệu,” trong David J. O’Brien và Thomas A. Shannon, eds., Catholic Social Thought: The Documentary Heritage (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1992), 289; Phaolô VI, “Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Hoà Bình,” Origins 1/29 (January 6, 1972): 491; Leonardo Boff, “Social Ecology: Poverty and Misery,” trong David G. Hallman, ed., Ecotheology: Voices from South and North (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1994), 243; Frederick R. Wilson, The San Antonio Report: Your Will Be Done, Mission in Christ’s Way (Geneva: WCC Publications, 1990), 54.

(83) Stark, 73–94.

(84) Eloy Bueno, La iglesia en la encrucijada de la missión (Estella, Spain: Editorial Verbo Divino, 1999), 241.

(85) Stott, Christian Mission in the Modern World, 15–34.

(86) “The Grand Rapids Report on Evangelism and Social Responsibility: An Evangelical Commitment” (1982), 4.c, trong John R. W. Stott, ed., Making Christ Known: Historic Mission Documents from the Lausanne Movement, 1974–1989 (Grand Rapids, Mich.: Eerdmans, 1997), 181–182.

(87) Người nghèo bị bỏ rơi (“poor and marginalized”) được dùng ở đây để chỉ những người nghèo về kinh tế, hay những người bị xã hội gạt ra bên lề hay bị coi như không quan trọng hay vô giá trị. Hạng người này có thể gồm những người di cư, tị nạn, phụ nữ, khuyết tật, các nhóm dân bản địa, một số nhóm sắc tộc hay bộ lạc, trẻ em, người già hay người đồng tính. Tuy nhiên thường khi các nhóm người bị gạt ra bên lề này cũng là những người nghèo về kinh tế và vì thế không được giáo dụ; họ thường cũng là những kẻ tội phạm hay nạn nhân của các tội phạm và bạo lực.

(88) Kirk, 99; cũng xem Schreiter, “Globalization and Reconciliation,” 125.

(89) Ronaldo Muñoz, “God the Father,” trong Ignacio Ellacuría và Jon Sobrino, eds., Mysterium Liberationis: Fundamental Concepts of Liberation Theology (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1993), 405.

(90) Walter Wink, Naming the Powers: The Language of Power in the New Testament (Minneapolis, Minn.: Fortress Press, 1984); idem, Unmasking the Powers: The Invisible Forces That Determine Human Existence (Minneapolis, Minn.: Fortress Press, 1986); idem, Engaging the Powers: Discernment and Resistance in a World of Domination (Minneapolis, Minn.: Fortress Press, 1992). Ở đây tôi theo các suy tư của Donal Dorr trong Dorr, 115–117.

(91) Trích dẫn trong Jann E. Boyd Fullenwielder, “Proclamation: Mercy for the World,” trong Schattauer, Inside Out, 24.

(92) Dorr, 117.

(93) Bộ Giáo lý Đức tin, “Instruction on Christian Freedom and Liberation,” 68, trích dẫn trong Các giám mục Mỹ, To the Ends of the Earth: A Pastoral Statement on World Mission (New York: The Society for the Propagation of the Faith, 1987), đoạn 49, 25.

(94) Dorr, 155–156; một thảo luận về thực hành, xem Bevans, Models of Contextual Theology, 88–89.

(95) LCWE và WEF, “Consultation on Simple Life–Style”.

(96) Dorr, 153.

(97) Ibid., 156.

(98) “Justice in the World,” trong O’Brien và Shannon, 295.

(99) Manila Manifesto, 8, trong Scherer và Bevans, New Directions in Mission and Evangelization 1, 300.

(100) Một ví dụ đương đại về việc hoạt động vì công lý trong Giáo Hội là việc thành lập Tiếng Nói Giáo Dân (và phía tương đương Tiếng Nói Giáo Sĩ) năm 2002 để đáp lại các vụ tai tiếng về việc lạm dụng tình dục của giới giáo sĩ (xem David Gibson, The Coming Catholic Church [San Francisco, HarperSanFrancisco, 2003]).

(101) Các giám mục Mỹ, The Challenge of Peace: God’s Promise and Our Response (1983), trong O’Brien và Shannon, 492. Câu trích lấy từ Gioan Phaolô II, “Address to Scientists and Scholars,” Origins, 10 (1981): 621.

(102) Ví dụ, truyền thống Thánh Mauriciô và các thành viên của Đạo Quân Theban. Xem Robert Ellsbert, All Saints: Daily Reflections on Saints, Prophets and Witnesses for Our Time (New York: Crossroad, 1997), 411–412.

(103) Kirk, 148.

(104) The Challenge of Peace, IV.B.1–4, trong O’Brien và Shannon, 552–556; các trích dẫn lấy từ 555. Về thuyết đạo đức “chiếc áo không đường may” của hồng y Bernardin, xem Thomas G. Fuechtmann, ed., Consistent Ethic of Life (Kansas City, Mo.: Sheed and Ward, 1988).

(105) Philip Jenkins, The Next Christendom: The Coming of Global Christianity (New York: Oxford University Press, 2002), 163–190.

(106) Ví dụ, Phaolô VI, Octogesima Adveniens, 21, trong O’Brien và Shannon, 273; “Justice in the World,” trong O’Brien và Shannon, 289; LCWE và WEF, “Consultation on Simple Life–Style,” 2, trong Scherer và Bevans, New Directions in mission and Evangelization 1, 269; WCC, “Justice, Peace and the Integrity of Creation” (1990), trong Scherer và Bevans, New Directions in mission and Evangelization 1, 82–83. Thomas Thangaraj trích dẫn nhà thần học Chính Thống giáo Constantin Voicu: “Sẽ không bao giờ có một môi trường tốt hơn nếu không có một trật tự xã hội công bằng hơn” (xem Thomas Thangaraj, The Common Task: A Theology of Christian Mission [Nashville, Tenn.: Abingdon Press, 1999], 92, trích dẫn Constantin Voicu, “Orthodox Theology and the Problems of the Environment,” The Greek Orthodox Theological Review 38/1–4 [1993]: 175).

(107) Xem Kirk, 166, 262 n. 6. Trong chú thích 6, Kirk trình bày một thư tịch chung về công bằng môi trường được viết từ quan điểm Kitô giáo. Một quan điểm chuyên biệt truyền giáo, xem Heidi Hadsell, “Ecology and Mission,” trong Müller et al., 114–117; Rosemary Radford Ruether, “Ecojustice at the Center of the Church’s Mission” và Larry Rasmussen, “Global Ecojustice: The Church’s Mission in Urban Society,” Mission Studies 16/1/31 (1999): 111–121 và 123–135.

(108) Walter Brueggemann, “The Uninflected Therefore of Hosea 4, 1–3,” trong Fernando F. Segovia và Mary Ann Tolbert, eds., Reading from This Place, vol. 1, Social location and Biblical Interpretation in the United States (Minneapolis, Minn.: Fortress Press), 231–249.

(109) Rudy Wiebe, The Blue Hills of China (Toronto, Canada: McClelland & Stewart, New Canadian Library Edition, 1995), 258.

(110) Xem Kirk, 180–183.

(111) Xem, chẳng hạn, Thượng Hội Đồng Đặc Biệt cho châu Phi (1994), Đề Nghị 55, trong Africa Faith and Justice Network, ed., African Synod: Documents, Reflections, Perspectives (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1996), 106; Liên hiệp các Hội đồng Giám mục châu Á, Tuyên bố chung về Hội nghị Toàn thể VII, “A Renewed Church in Asia: A Mission of Love and Service,” II.D, FABC Papers 93, 7; Fourth General Conference of Latin American Bishops, “Conclusions,” 169–177, trong Alfred T. Hennelly, ed., Santo Domingo and Beyond (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1993), 119–122.

(112) Marthinus L. Daneel, African Earthkeepers: Wholistic Interfaith Mission (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 2001), 10.

(113) Phụng vụ Công giáo Rôma, Kinh Tiền tụng, Lễ Chúa Kitô Vua.

* Bài liên quan:

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (1)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (2)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (3)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (4)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (5)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (6)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (7)

MỘT THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO CHO HÔM NAY (8)